Năng suất thấp
Hầu hết DNTN Việt quy mô lớn nổi lên từ tập trung đầu tư, kinh doanh bất động sản và tích tụ tài sản từ đất, nhờ sử dụng mối quan hệ thân hữu với một số cá nhân và cơ quan nhà nước - nơi có quyền phân bổ đất đai là thứ tài nguyên được hiến định thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý.
Vài năm gần đây mới bắt đầu có một số DNTN quy mô lớn chuyển một phần đầu tư sang các lĩnh vực khác đa dạng hơn, như công nghiệp chế tạo, năng lượng, các dịch vụ ngân hàng, thương mại, vận tải, y tế, giáo dục, kể cả một vài lĩnh vực công nghệ cao.
Theo Sách Trắng DN Việt Nam 2019 công bố năm 2020, trong 2 năm 2016 và 2017, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của DNTN lần lượt đạt 4,4% và 6%; tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) đạt 1,4% và 1,8%; chỉ số quay vòng vốn, tức tỷ lệ doanh thu trên vốn kinh doanh, đạt 0,71 và 0,73.
Dù tỷ suất lợi nhuận bình quân tăng lên, nhưng tỷ lệ DNTN bị thua lỗ khá lớn 40-50% trong suốt những năm 2011-2017.
Rủi ro vay nợ cũng là vấn đề lớn của DNTN, với hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu lên tới 2,3 lần trong 2 năm 2016 và 2017. Chất lượng và hiệu quả của DN nói chung trên 2 khía cạnh giá trị gia tăng và năng suất lao động cũng thấp và tụt khá xa so với các nước xung quanh.
Sự gia tăng giá trị sản xuất (MVA) và MVA tính theo đầu người ở Việt Nam trong các ngành công nghiệp chế biến chế tạo, kể cả các ngành xuất khẩu, đều thấp. Năm 2016 MVA nước ta đạt 29,28 tỷ USD, bình quân đầu người đạt 310USD, kém xa so với Trung Quốc và các nước ASEAN-6.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2018 khu vực DNTN chỉ đạt mức năng suất 58 triệu đồng/người so với 248 triệu đồng của DN FDI và 339 triệu đồng của DNNN. Điều này chủ yếu do quy mô của DNTN quá nhỏ, đặc biệt với các hộ gia đình chiếm tới 90% khu vực này phần lớn chỉ tham gia các hoạt động giản đơn, như sản xuất các sản phẩm truyền thống, thương mại, dịch vụ cung cấp cho người tiêu dùng tại địa phương.
Quy mô nhỏ, lại thiếu cả nguồn lực lẫn sự liên kết và hỗ trợ, cũng khiến DNTN khó tăng năng suất bằng hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, hoặc chuyên môn hóa và ứng dụng công nghệ tiên tiến, thực hiện đổi mới sáng tạo.
So với các nước trong khu vực, năng suất lao động của Việt Nam hiện nay rất thấp. Tính theo sức mua tương đương năm 2011, năng suất lao động Việt Nam năm 2017 đạt 10.232USD, chỉ bằng 7,2% mức năng suất của Singapore, 18,5% của Malaysia, 36,2% của Thái Lan, 43% của Indonesia và 55% của Philippines. Khoảng cách về năng suất lao động giữa Việt Nam với các nước này vẫn tiếp tục gia tăng.
Ảnh minh họa.
Môi trường cạnh tranh bất bình đẳng
Sự chênh lệch về nhiều mặt giữa DNTN với các DNNN và FDI có nguyên nhân gốc rễ là môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế chưa thực sự được tạo lập.
Dù Hiến pháp, luật pháp và các nghị quyết của Đảng đều khẳng định sự bình đẳng giữa các DN thuộc mọi thành phần kinh tế, dù môi trường kinh doanh liên tục được cải thiện, nhưng sự phân biệt đối xử và bất bình đẳng giữa tuyệt đại đa số DNTN với DNNN và FDI vẫn kéo dài suốt hơn 30 năm đổi mới, đến nay vẫn nghiêm trọng và phổ biến.
DNNN thuộc khu vực kinh tế đóng vai trò chủ đạo, nên gắn bó trực tiếp với hệ thống nhà nước, nơi có quyền lực tối cao cả trong thiết kế và thi hành luật pháp, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, lẫn sở hữu và phân bổ các nguồn lực quan trọng nhất của đất nước.
Tuy có bị gò bó do chịu sự quản lý trực tiếp của nhiều cơ quan nhà nước, song DNNN thường được bảo hộ khỏi sự cạnh tranh của DNTN trong nước và quốc tế, đồng thời được hưởng nhiều đặc quyền trong tiếp cận các nguồn lực và giành thương quyền trong các lĩnh vực và dự án có khả năng sinh lời cao.
Chính vì vậy, không ít DNNN đã trở thành gánh nặng cho nền kinh tế khi làm ăn thua lỗ, nợ nần kéo dài, khiến các nguồn lực họ nắm giữ bị sử dụng kém hiệu quả, làm tăng chi phí và giá cả các sản phẩm họ cung cấp cho xã hội, đồng thời tước đi cơ hội và nguồn lực kinh doanh của các DN khác.
Mặt khác, hiện tượng lợi ích nhóm, DN sân sau, DN thân hữu khá phổ biến những năm gần đây, đã tạo ra môi trường cạnh tranh bất bình đẳng giữa DN thân hữu với DN không có quan hệ thân hữu.
Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng Thương mại - Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cùng Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa kỳ (USAID) đưa ra năm 2018, tới 70% DN cho rằng nguồn lực kinh doanh (hợp đồng, đất đai…) chủ yếu rơi vào DN thân quen cán bộ công quyền.
Việc tiếp cận thông tin cũng thiếu công bằng, với 69% DN cho rằng cần phải có mối quan hệ để có thông tin hay tài liệu của tỉnh.
Trong môi trường cạnh tranh bất bình đẳng như vậy, DNTN bị chèn ép nhiều bề nên rất khó có thể lớn lên được. Quyền tiếp cận các nguồn lực, thương quyền và cơ hội kinh doanh của họ bị thu hẹp, thậm chí bị tước đoạt bởi những DN được ưu đãi một cách không sòng phẳng.
Họ phải trả giá cao hơn cho nhiều tài nguyên và sản phẩm do những nhóm lợi ích thao túng thị trường, đặc biệt về đất đai, mặt bằng sản xuất-kinh doanh, chi phí vận tải… làm đội giá thành và giảm lợi nhuận của họ. Biên lợi nhuận quá nhỏ bé và bấp bênh khiến DNTN càng khó có khả năng đầu tư phát triển và ít dám nghĩ đến làm ăn lớn hay lâu dài.
Môi trường đó đã không khuyến khích sự liên kết, hợp tác, thậm chí còn gây chia rẽ, nghi ngờ giữa các DN thuộc các thành phần khác nhau, giữa DN được ưu đãi và DN bị kỳ thị.
Môi trường cạnh tranh không bình đẳng còn là mảnh mất màu mỡ cho tham nhũng, cho cơ chế xin-cho kéo dài, cho sự lãng phí các nguồn lực và mất mát thời cơ phát triển.