Giải pháp để chuyển đổi ngành dệt may phát triển bền vững

Việt Nam đang gặp khó khăn về công nghệ, vốn nhưng vẫn có thể học hỏi kinh nghiệm từ các nước về liên minh cộng sinh - công cụ hiệu quả đã giúp doanh nghiệp các nước giải quyết bài toán còn thiếu hụt.
Nhà máy sợi Hòa Xá, Tổng Công ty Cổ phần dệt may Nam Định, một trong những đơn vị đầu ngành về sản xuất sợi cho thị trường trong nước và xuất khẩu. (Ảnh: Trần Việt/TXVN)
Nhà máy sợi Hòa Xá, Tổng Công ty Cổ phần dệt may Nam Định, một trong những đơn vị đầu ngành về sản xuất sợi cho thị trường trong nước và xuất khẩu. (Ảnh: Trần Việt/TXVN)

Để đảm bảo phát triển nhanh, bền vững, bên cạnh chuyển đổi số, các nước đang hướng tới chuyển đổi sang các nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

Dệt may được nhắc đến như một vai trò trung tâm trong xu hướng chuyển dịch đó. Tuy nhiên, để tìm được hướng đi và các giải pháp chuyển đổi phù hợp, hiệu quả hiện đang là vấn đề bức thiết của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.

Lộ trình cho chuyển đổi

Kinh tế thế giới và môi trường khí hậu toàn cầu đang có nhiều biến đổi bất lợi. Để thích ứng, các nước đang dần dịch chuyển sang mô hình phát triển bền vững. Ngành dệt may Việt Nam muốn tồn tại và phát triển phải nhận thức rõ và bắt kịp xu hướng này. Đồng thời việc chuyển đổi cần theo lộ trình để doanh nghiệp kịp thời thời thích ứng trong bối cảnh đang tìm cách phục hồi sau ảnh hưởng nặng nề của dịch COVID-19 và sự bất ổn của tình hình kinh tế thế giới.

Dệt may là một trong những ngành tiêu dùng lớn, sử dụng nhiều lao động, quỹ đất và tài nguyên. Việc mở rộng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dệt may là một trong các nguyên nhân gây tác động tiêu cực đến môi trường. Chính vì thế, nó tạo ra nhu cầu bức thiết là phát triển ngành theo hướng bền vững, tiết kiệm tài nguyên, thân thiện hơn với môi trường.

Bà Đinh Thị Bảo Linh - Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại, Bộ Công Thương, cho biết sản lượng dệt may toàn cầu tăng gần gấp đôi từ năm 2000-2015 và vẫn đang tiếp tục gia tăng. Mức tiêu thụ quần áo và giày dép dự kiến tăng 63% vào năm 2030.

Các nhà bảo vệ môi trường tính toán, nếu tăng vòng đời sản phẩm dệt may thêm 9 tháng sẽ giảm được từ 20-30% khí thải carbon, nước, chất thải và giảm được 20% chi phí sản xuất. Tuy nhiên, mới chỉ có 1% sản phẩm dệt may được sản xuất theo quy trình tuần hoàn.

Do vậy, từ năm 2017, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã ban hành Hướng dẫn thẩm định của OECD đối với chuỗi cung ứng có trách nhiệm trong lĩnh vực may mặc và giày dép. EU - thị trường nhập khẩu chủ lực của hàng dệt may Việt Nam cũng đã ban hành Chiến lược về Dệt may Tuần hoàn và Bền vững để thực hiện các cam kết của Thỏa thuận Xanh châu Âu.

Theo số liệu của EU, khoảng 73% hàng dệt may tiêu thụ ở EU được nhập khẩu từ các thị trường ngoại khối. EU sản xuất 7,4kg hàng dệt/người trong khi tiêu thụ gần 26kg nên thị trường này luôn trong tình trạng nhập siêu. Trước dịch COVID-19, EU là một trong những nhà nhập khẩu quần áo lớn nhất toàn cầu lên đến 80 tỷ euro năm 2019.

Chiến lược trên huy động các nhà thiết kế, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, nhà bán lẻ, nhà quảng cáo và công dân EU xác định lại thời trang của khối. Theo đó, các sản phẩm dệt may bền vững sẽ trở thành tiêu chuẩn ở EU. Chiến lược đề xuất các hành động cho toàn bộ vòng đời của sản phẩm dệt may; cách hàng dệt may được thiết kế và tiêu thụ; việc cấm tiêu hủy các sản phẩm không bán được trong một số điều kiện nhất định; về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất thông qua trả phí điều chỉnh sinh thái,...

Trước sự tác động tổng hòa từ cả phía cung và cầu, từ môi trường vĩ mô là các quy định, chính sách của nhà nước và các bên liên quan, thúc đẩy ngành dệt may phải chuyển đổi theo hướng phát triển bền vững, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn để có thể chuyển đổi bắt kịp xu hướng.

Theo Tiến sỹ Trương Thị Ái Nhi - chuyên gia của Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Tuần hoàn (ICED), mặc dù là nhà xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới, nhưng ngành dệt may Việt Nam đang nằm ở vị thế dễ bị tổn thương. Do Việt Nam gia công là chủ yếu, chưa làm chủ được nguồn cung, chưa nắm được đầu ra của sản phẩm. Tỷ lệ nội địa hóa của ngành chỉ đạt khoảng 30-35%.

Khâu dệt nhuộm chưa có quy hoạch về không gian phát triển nên chưa hình thành được các khu công nghiệp dệt may lớn có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Trong khi đó, nỗ lực bền vững hóa của các dự án dệt-nhuộm chưa nhận được sự ghi nhận, cấp phép và đồng hành từ một số địa phương.

Dây chuyền sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. (Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN)

Sự kết nối trong và ngoài ngành để tạo ra hệ sinh thái tuần hoàn bền vững cho ngành chưa được hình thành. Vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao và cố vấn phục vụ cho việc chuyển đổi vẫn chưa được giải quyết triệt để.

Ngoài ra, để chuyển đổi đòi hỏi vốn lớn, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có điều kiện đáp ứng. Những biến động về kinh tế-chính trị-xã hội toàn cầu ảnh hưởng đến xu thế và mức tiêu dùng gây ra nhiều lúng túng cho doanh nghiệp.

Ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước những nguy cơ, thách thức, nhưng cũng là cơ hội cho việc chuyển đổi qua các mô hình bền vững, tuần hoàn.

Theo bà Linh, trong lộ trình chuyển đổi, EU có các chính sách để hỗ trợ các bên trong hệ sinh thái chuyển đổi xanh và số hóa, bao gồm cả việc xem xét các giải pháp công nghệ bền vững và mô hình kinh doanh sáng tạo.

Ngoài ra, trong bối cảnh hội nhập, khi các nước khác chuyển đổi xanh, chi phí sản xuất của họ tăng lên. Nếu doanh nghiệp Việt Nam không chuyển đổi, chi phí thấp hơn, nhưng khi giải quyết bài toán phòng vệ thương mại, doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp bất lợi.

Theo bà Linh, nếu bắt nhịp sớm xu hướng xanh hóa, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội để chuyển đổi, nâng cao sức cạnh tranh, giữ được thị phần tốt hơn tại các thị trường xuất khẩu chủ lực.

Tuy nhiên, theo một số chuyên gia, thời gian gần đây, việc thông tin nhấn mạnh về sự thành công của ngành dệt may một quốc gia cho xanh hóa sẽ khiến người ta dễ bỏ qua những khía cạnh khác của phát triển bền vững.

Bà Nguyễn Thị Thúy - chuyên gia của Công ty TÜV Rheinland Việt Nam, công ty chuyên về kiểm nghiệm, đánh giá và chứng nhận sản phẩm cho các nhãn hàng và người mua trên khắp thế giới, cho biết những thông tin gần đây cho rằng Banglades có nhiều đơn hàng dệt may hơn Việt Nam do có nhiều nhà máy xanh là chưa chính xác.

Thực tế, Banglades có khoảng 200 nhà máy xanh, nhưng đó là Chứng nhận GRS (tiêu chuẩn tái chế toàn cầu), chứ không phải là Chứng nhận LEED (định hướng thiết kế về năng lượng và môi trường). Trong khi đó, nhiều nhà máy tại Việt Nam cũng đã đạt tiêu chuẩn GRS này. Thậm chí, phía Banglades cũng rất ngạc nhiên khi thấy các nhà máy Việt Nam hiện đại hơn họ.

Theo bà Thúy, Banglades chỉ nhận những đơn hàng may đơn giản, chi phí thấp. Trong khi đó, Việt Nam hiện đang tập trung vào phân khúc cao cấp hơn, thương hiệu địa phương, tự thiết kế và có độ khó cao hơn, chẳng hạn như may veston.

Nghiên cứu của ông Nguyễn Đỗ Thuyên - Thạc sỹ Chính sách công cấp bởi Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright, dẫn Báo cáo của WTO năm 2022 đã đưa ra khung đánh giá về năng lực cạnh tranh cho các quốc gia xuất khẩu dệt may. Theo đó, bền vững chỉ là một trong số 12 tiêu chí cấu thành nên năng lực cạnh tranh, bên cạnh chất lượng sản xuất, thời gian giao hàng, giá, lợi thế về thuế quan, độ ổn định chính trị…

Báo cáo lấy ý kiến của những người mua chấm điểm 12 tiêu chí trên cho 6 nước xuất khẩu dệt may. Kết quả, Bangladesh chỉ có 2 tiêu chí cao hơn Việt Nam, đó là giá và lợi thế thuế quan. Họ thấp hơn ở 10 tiêu chí còn lại. Ngay cả điểm số về bền vững vốn được nhiều cơ quan truyền thông khen ngợi, họ cũng ở mức thấp (2 điểm) so với Việt Nam (3,5 điểm).

Hơn 300 nhà cung cấp tham gia triển lãm quốc tế chuyên ngành May 2023 tại Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: Mỹ Phương/TTXVN)

Theo nghiên cứu của ông Thuyên, các nhà hoạch định ngành dệt may nên tìm hiểu xem Bangladesh đã làm gì để cải thiện tất cả các tiêu chí có liên quan, nếu muốn rút ra những khuyến nghị có tính toàn diện và thực chất, thay vì chỉ tập trung vào xanh hóa. Như việc khai thông tuyến đường thủy trực tiếp với Italy đã giúp Banglades rút ngắn thời gian giao hàng và tiết kiệm đến 40% chi phí hậu cần.

Theo ông Thuyên, quá nhấn mạnh xanh hóa dễ tạo thêm những kỳ vọng về mặt dư luận lên doanh nghiệp dệt may Việt Nam - vốn đang chật vật xoay sở với tình trạng thiếu đơn hàng, doanh số giảm, phải nỗ lực bảo toàn đồng lương cho công nhân và cố gắng không cắt giảm nhân lực.

Việc ngành dệt may hướng đến xanh hóa và phát triển bền vững là xu hương tất yếu, nhưng bối cảnh và lộ trình cũng quan trọng không kém. Không đặt kỳ vọng quá lớn rằng doanh nghiệp phải thực hiện những nghĩa vụ tự nguyện ở ngay tại thời điểm mà họ còn đang phải vất vả tìm cách sống sót trên thị trường, ông Thuyên nhấn mạnh.

Tăng cường tính liên kết

Chiến lược phát triển ngành dệt may đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035 đã xác định rõ quan điểm, xuất khẩu tiếp tục là động lực chính, quan trọng cho phát triển và tăng trưởng của ngành, phát triển ngành gắn bó với bảo vệ môi trường sinh thái, thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm xã hội, đảm bảo phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững và các cam kết quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, để thực hiện được mục tiêu này, đòi hỏi cần đồng bộ nhiều giải pháp.

Tỷ phú Warren Buffett nổi tiếng của Mỹ từng nói “muốn đi nhanh thì đi một mình, muốn đi xa thì đi cùng nhau." Câu nói này khá đúng với hoàn cảnh các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ, muốn chuyển mình chuyển đổi phát triển bền vững nhưng thế và lực còn hạn chế.

Tiến sỹ Phạm Thị Hồng Phượng - Giảng viên chính Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết đề án nghiên cứu sản xuất vải từ sợi bẹ chuối và lá dứa của bà đã thành công, nhưng sản phẩm vẫn chưa thể ra mắt thị trường do giá thành sản xuất khoảng 200.000 đồng/kg xơ. Trong khi, sợi nhập khẩu giá cao nhất hiện nay chỉ khoảng 80.000 đồng/kg.

Theo bà Phượng, câu chuyện khó khăn ở đây là dự án rất lớn, một doanh nghiệp không thể làm nổi. Việt Nam có nhiều hiệp hội, nhưng các doanh nghiệp còn thiếu tính liên kết, vẫn đang tự thân vận động mà không biết tận dụng sức mạnh của hiệp hội.

“Chúng tôi cần sự liên kết nhiều doanh nghiệp với nhau. Vì trong chuỗi dệt may, công đoạn sau là khách hàng của công đoạn trước tạo thành chuỗi tuần hoàn. Tôi sẽ đưa đề án về hiệp hội, đào tạo miễn phí, doanh nghiệp được thụ hưởng, ứng dụng để giảm chi phí sản xuất. Về phía doanh nghiệp cần có sự mạnh dạn chuyển đổi," bà Phượng nói.

Hàng dệt, may xuất mặt hàng làm tốt công tác phòng vệ thương mại. (Ảnh: Trần Việt /TTXVN)

Theo Tiến sỹ Trương Thị Ái Nhi - chuyên gia của Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Tuần hoàn (ICED), dệt may Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn về công nghệ, vốn,… nhưng Việt Nam vẫn có thể học hỏi kinh nghiệm từ các nước về những liên minh cộng sinh - công cụ hiệu quả đã giúp các doanh nghiệp các nước giải quyết được các bài toán còn thiếu hụt của mình.

Điển hình như mô hình tuần hoàn trên toàn bộ chuỗi giá trị của ngành dệt may và thời trang Thụy Điển. Họ có những doanh nghiệp làm cùng nhau từ bao bì và đóng gói. Khách hàng có thể sử dụng bao bì để gửi lại hàng hóa.

Các mô hình dịch vụ cho thuê quần áo thiết kế; mô hình bán hàng đã qua sử dụng trực tuyến; mô hình dịch vụ sửa chữa trang phục nhanh B2C, B2B; chương trình thu hồi và bán lại các mẫu cũ; mô hình thiết kế trang phục có thể tháo rời và kéo dài tuổi thọ; mô hình giảm và tái sử dụng vật liệu; mô hình vận chuyển tuần hoàn,…

Đồng bộ các giải pháp

Theo dự báo gần nhất của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), tình hình sản xuất, xuất khẩu sẽ cải thiện dần, nhưng khó khăn sẽ còn kéo dài hết năm 2023. Do nhiều doanh nghiệp chưa đủ đơn hàng cho quý 3 và quý 4.

Bên cạnh việc thiếu đơn hàng, chấp nhận các đơn hàng không phải thế mạnh, các doanh nghiệp còn phải đối mặt với đơn giá giảm sâu, thậm chí giảm trên 50% so với bình thường.

Do vậy, để phấn đấu đạt mục tiêu xuất khẩu từ 39-40 tỷ USD năm 2023, cũng như thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển dệt may Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2035, đòi hỏi phải đồng bộ nhiều giải pháp.

Ở góc độ quản lý Nhà nước, bà Đinh Thị Bảo Linh - Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại, Bộ Công Thương, cho biết Bộ Công Thương đã, đang và sẽ phối hợp với các bộ, ngành liên quan tăng cường công tác bảo vệ môi trường, hoàn thiện chính sách, pháp luật, kiểm tra, giám sát việc thực thi các quy định pháp luật về môi trường liên quan đến ngành, đảm bảo tính minh bạch, khả thi và thuận lợi cho hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh.

Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu, đánh giá lại mức độ ảnh hưởng về môi trường của công đoạn dệt nhuộm, hoàn tất, thuộc da để điều chỉnh các tiêu chí về môi trường cho phù hợp với tình hình thực tế và trình độ khoa học công nghệ hiện nay, tạo cơ sở pháp lý cho các địa phương thu hút đầu tư phát triển ngành.

Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan phổ biến rộng rãi thông tin về công nghệ mới, thân thiện môi trường trong lĩnh vực dệt may, da giày, xác định công nghệ khuyến khích đầu tư làm cơ sở cho việc phê duyệt, thẩm định các dự án đầu tư, đặc biệt là những dự án nhạy cảm về vấn đề môi trường.

Ở góc độ vốn và các giải pháp tài chính, ông Nguyễn Quang Thanh - Phó Tổng Giám đốc Công ty Đầu tư Tài chính Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh (HFIC), cho biết ngày 24/6, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 98/2023/QH15 thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh; trong đó khoản 8, điều 5 quy định giao vốn đầu tư công từ ngân sách thành phố hỗ trợ lãi suất đối với các dự án đầu tư được HFIC cho vay thuộc lĩnh vực ưu tiên phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn thành phố theo đối tượng, điều kiện, trình tự, thủ tục, mức, thời gian hỗ trợ, do Hội đồng nhân dân quy định.

Theo dự thảo trình Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để thông qua, dự kiến trong tháng 8 này, hoặc chậm nhất là tháng 9, các cơ quan dự thảo đã đưa các doanh nghiệp sản xuất phụ liệu và công nghiệp hỗ trợ của dệt may và da giày vào đối tượng hỗ trợ 50% lãi vay.

Tuy nhiên, lĩnh vực liên quan đến chuyển đổi xanh, phát triển bền vững chưa được đưa vào chương trình dự thảo. Vì thế, HFIC và các cơ quan chức năng dự thảo mong muốn nhận được ý kiến chính thức của các hiệp hội để bổ sung vào danh mục các doanh nghiệp, dự án để Thành phố Hồ Chí Minh hỗ trợ lãi suất cho vay.

Dệt may, một trong những ngành xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam vào thị trường châu Âu. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)

Theo ông Thanh, để tiếp cận được nguồn vốn ưu đãi này, các doanh nghiệp chỉ cần có phương án vay vốn khả thi, tài chính doanh nghiệp lành mạnh, không có nợ xấu và có tài sản bảo đảm. Trong trường hợp khó khăn, HFIC có đội ngũ tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng phương án khả thi. Đầu mối tiếp nhận thông tin có thể trực tiếp liên hệ với HFIC hoặc qua các hiệp hội ngành hàng.

Về các nguồn vốn hỗ trợ từ nước ngoài, theo bà Nhi, có rất nhiều nguồn quỹ từ nước ngoài hỗ trợ cho những ý tưởng, dự án về đổi mới sáng tạo, cải tiến, phát triển bền vững, giảm phát thải... Các doanh nghiệp có thể thông qua các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành, các viện nghiên cứu khoa học, các hiệp hội hoặc trực tiếp liên hệ để có thể kết nối với các nguồn quỹ này, góp phần giúp các doanh nghiệp hiện thực hóa các dự án, lộ trình và mục tiêu của mình.

Hiệp hội Dệt may Việt Nam khuyến nghị, các doanh nghiệp cần chú trọng 3 vấn đề cốt lõi. Một là, tìm giải pháp giữ chân người lao động, nhất là lực lượng nòng cốt. Tổ chức các lớp đào tạo nhân lực cho chuyển đổi xanh, chuyển đổi số.

Hai là, giữ chân khách hàng, chấp nhận các đơn hàng không phải thế mạnh, không có lãi để có việc làm cho người lao động và để khách hàng không chuyển đi nơi khác. Xây dựng quan hệ đối tác tin cậy, lâu dài. Khai thác thị trường mới, quan tâm thị trường nội địa.

Ba là, giảm tối đa các chi phí chưa thực sự cần thiết của doanh nghiệp.

VITAS sẽ tiếp tục phát huy vai trò cầu nối hiệu quả giữa các cơ quan quản lý nhà nước với khối doanh nghiệp dệt may, nâng cao nhận thức phát triển ngành theo hướng xanh-sạch-bền vững; phối hợp tích cực với các tổ chức quốc tế uy tín triển khai các chương trình về lao động, năng lượng xanh, tuần hoàn, tái chế, chuyển đổi số, …; tổ chức xúc tiến thương mại, tìm kiếm khách hàng cho các doanh nghiệp.

Ở góc độ quản trị doanh nghiệp, các chuyên gia khuyến nghị, các doanh nghiệp cần xác định rõ mục tiêu và lộ trình chuyển đổi là kế hoạch dài hạn, đồng thời phải đảm bảo tính linh hoạt trong bối cảnh thị trường quốc tế liên tục biến động.

Về tổng thể, chuyển đổi cần gắn kết số hóa và xanh hóa, tránh tản mát, cục bộ. Lộ trình chuyển đổi cần chi tiết hóa các hành động chính cần thực hiện và đặt ra các mục tiêu và cam kết. Các chỉ số sẽ được sử dụng để đánh giá và giám sát hiệu suất.

Chủ động hợp tác với các đối tác ở cấp độ toàn cầu, khu vực và song phương; chủ động đưa ra các sáng kiến thay vì phải cố gắng đuổi theo các xu hướng của toàn cầu. Vì với sáng kiến khả thi, sẽ có những nguồn lực tìm đến doanh nghiệp để hiện thực hóa.

Các doanh nghiệp cần đẩy mạnh tự chủ nguồn cung vật liệu nội địa, đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu; tận dụng và tối ưu hóa đầu vào thông qua thiết kế, phát triển và sử dụng nguyên nhiên liệu, nguyên vật liệu tái tạo, tái sinh; thúc đẩy sản xuất sạch hơn, sản xuất sản phẩm thân thiện môi trường; đẩy mạnh mạng lưới liên kết bền vững các doanh nghiệp trong ngành và các bên liên quan theo chuỗi giá trị; xây dựng và ứng dụng cơ sở dữ liệu thông tin thúc đẩy triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn.

Các tin khác