Xung quanh vấn đề này, ĐTTC đã có cuộc trao đổi với TS. NGUYỄN TRÍ HIẾU, chuyên gia tài chính NH.
PHÓNG VIÊN: - Thưa ông, ông nhận định như thế nào về vấn đề cho vay ngoại tệ đối với nền kinh tế Việt Nam cũng như định hướng tiến tới chấm dứt cho vay ngoại tệ được đề ra trong Chiến lược phát triển ngành NH Việt Nam?
Hiện nay, nền kinh tế vẫn còn dùng đồng nội tệ và ngoại tệ làm cho Việt Nam rất khó khăn trong vấn đề thực hiện chính sách tiền tệ một cách độc lập, nên yêu cầu chậm nhất đến năm 2030 cơ bản khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế là điều cần thiết. |
Thế nhưng, vay ngoại tệ gây bất lợi cho chính sách ngoại hối của NHNN, do hoạt động này làm tăng nhu cầu ngoại tệ lên. Kể cả trong trường hợp vay để mua vật liệu trong nước, sản xuất trong nước phục vụ mục đích xuất khẩu, theo quy định các DN ký hợp đồng vay USD nhưng phải bán lại USD đó cho NH ngay lập tức để nhận tiền vay bằng VNĐ, thì NH vẫn phải cân đối nguồn USD của mình để thực hiện hợp đồng tín dụng này. NH cân đối nguồn ngoại tệ bằng cách đi vay ngoại tệ từ tổ chức hoặc cá nhân để cho DN vay lại, làm tăng nhu cầu về ngoại tệ.
Chính vì vậy, tôi đồng tình với quy định giảm dần tỷ lệ tín dụng ngoại tệ/tổng tín dụng và tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán, tiến tới ngừng cho vay ngoại tệ đặt ra tại Chiến lược phát triển ngành NH Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Thứ nhất, thời gian giảm dần huy động, cho vay ngoại tệ và tiến đến việc chấm dứt cho vay ngoại tệ trong vòng khoảng 10 năm tới là hợp lý, tiến tới thực hiện chủ trương hoàn toàn chống đô la hóa và chủ trương chỉ có 1 đồng nội tệ có thể giao dịch ở Việt Nam.
Khi đó, tất cả những nguồn ngoại tệ gửi về Việt Nam muốn gửi tiền tại các NHTM, phải đổi từ ngoại tệ sang VNĐ và DN chỉ vay vốn bằng nội tệ. Điều này sẽ có lợi cho chính sách ngoại hối của Việt Nam.
Còn thời điểm này, theo tôi việc chấm dứt cho vay ngoại tệ chưa thể thực hiện ngay, nên kéo dài thêm ít nhất 1 năm nữa. Trên nguyên tắc, đến cuối năm nay, NHNN sẽ chấm dứt cho vay ngoại tệ nhưng chấm dứt vào thời điểm đó sẽ quá sớm, vì DN xuất khẩu cần vay ngoại tệ để giảm gánh nặng chi phí.
- Có ý kiến nhận định thời gian qua NHNN chưa thể ngừng cho vay ngoại tệ, vì điều này sẽ đẩy cầu tín dụng VNĐ lên, từ đó không thực hiện được mục tiêu giảm lãi suất. Ông có đồng tình với ý kiến này?
- Nếu bây giờ các DN xuất khẩu không được vay ngoại tệ mà phải vay nội tệ, sẽ gây áp lực lên hoạt động cho vay nội tệ và đẩy lãi suất vay nội tệ lên cũng là một nhận định có cơ sở. Tuy nhiên, thực tế không phải vì thế dẫn đến việc NHNN liên tục cho vay ngoại tệ trong các năm qua.
Việc NHNN vẫn cho vay ngoại tệ là do nhu cầu của các DN nhập khẩu. Họ cần hỗ trợ giảm thiểu chi phí tài chính và được vay USD với lãi suất có lợi cho khả năng cạnh tranh. Hiện nay vẫn có tình trạng các DN vay ngoại tệ với lãi suất thấp, rồi dùng tiền đó thay vì sản xuất kinh doanh đã đầu tư vào những lĩnh vực khác có lợi hơn như bất động sản.
Đây là một điểm cần chú ý và cần có quy định kiểm soát việc sử dụng vốn phải chặt chẽ hơn, yêu cầu các NH phải theo dõi việc sử dụng vốn để vốn ngoại tệ giá rẻ đi vào sản xuất kinh doanh, thay vì chệch hướng qua các hoạt động đầu tư khác của các DN được phép vay ngoại tệ.
Ảnh minh họa.
- Vậy NHNN cần phải xây dựng một lộ trình rõ ràng để DN có cơ sở thực hiện?
- Đây là điều cần thiết và rất quan trọng. Nếu tới đây, NHNN tiếp tục gia hạn cho vay ngoại tệ trong năm 2019, NHNN cũng cần cho biết thời điểm nào sẽ chấm dứt hoạt động cho vay ngoại tệ, thông qua có một lộ trình cụ thể siết lại việc cho vay ngoại tệ.
Trong đó, NHNN cần quy định chặt chẽ hơn việc chứng minh cụ thể về mục đích vay, yêu cầu “bằng chứng” cụ thể khi nào xuất khẩu, khi nào nhận được ngoại tệ từ xuất khẩu khi các công ty xuất nhập khẩu muốn vay ngoại tệ. NHNN cần quy định trong tổng chi phí DN cần vay, tỷ lệ vay ngoại tệ bao nhiêu, tỷ lệ vay nội tệ chiếm bao nhiêu và thời hạn vốn vay ngoại tệ nên giảm từ tổng dư nợ vay ngoại tệ 100% hiện nay xuống 70%, 50%, 30% và 0% trong vòng 3 năm tới, và kết thúc cuối năm 2021.
Đồng thời, khi đề ra lộ trình, NHNN cũng phải tính toán nhu cầu một cách rất sát với thực tế và tuân thủ chặt chẽ, không thay đổi lộ trình mới thực hiện được mục tiêu chấm dứt vay ngoại tệ trong nền kinh tế. Còn nếu NHNN cứ tiếp tục gia hạn cho vay ngoại tệ mãi như thực hiện trong thời gian qua, các DN cũng không xây dựng kế hoạch để đáp ứng quy định được.
- Về phía DN và NH, theo ông cần phải chuẩn bị những gì khi cơ quan quản lý phát tín hiệu giảm cho vay ngoại tệ và tiến tới dừng hẳn?
- Về phía DN, khi đã có lộ trình tiến tới chấm dứt cho vay ngoại tệ, họ cần chuẩn bị một kịch bản sẽ không được vay ở một tỷ lệ nào đó cho đến khi chấm dứt hoàn toàn vay ngoại tệ. Từ đó, DN đưa tính toán đó vào kế hoạch kinh doanh của mình.
Bên cạnh đó, DN phải đi tìm những nguồn tài trợ giá rẻ để giảm áp lực chi phí hoạt động, dĩ nhiên những nguồn tài trợ không thể rẻ bằng vay ngoại tệ, nhưng cũng có thể thay thế cho việc vay NH với lãi suất VNĐ cao. Nguồn này đến từ những công cụ tài chính như phát hành trái phiếu, hay tìm cách sử dụng vốn của các đối tác thương mại (đàm phán với các nhà cung cấp nguyên vật liệu thời gian trả chậm lâu hơn)…
Về phía các NH, trong kế hoạch kinh doanh hàng năm cũng phải tính tới lộ trình giảm dần tỷ lệ tín dụng ngoại tệ/tổng tín dụng. Để thay cho nguồn đó, các NH cũng phải có những biện pháp để giúp khách hàng giảm bớt gánh nặng chi phí khi chấm dứt vay ngoại tệ. Đó là những điều mà cả 2 phía cần chuẩn bị.
- Ông nhận định như thế nào về vấn đề chống đô la hóa ở Việt Nam đến thời điểm này?
- Cho đến nay, chống đô la hóa tại Việt Nam được xem là thành công. Trước đây, việc định giá giao dịch bằng USD trong bất động sản, thuê nhà, hàng hóa dịch vụ diễn ra rất phổ biến, nhưng vài năm gần đây tình trạng này không còn.
Dần dần Việt Nam sẽ tiến đến tình trạng chỉ có VNĐ là đồng tiền duy nhất, kể cả trong thanh toán, huy động và cho vay. Thuận lợi của đồng nội tệ là đồng tiền giao dịch duy nhất, giúp cho cơ quan quản lý chính sách tiền tệ dễ dàng quản lý hệ thống tiền tệ của Việt Nam.
Tiến đến chính sách tiền tệ độc lập chỉ có 1 đồng tiền nội tệ thanh toán tại thị trường trong nước, đó cũng là điều các quốc gia tiên tiến thực hiện.
- Xin cảm ơn ông.