Cải cách thể chế, bộ máy và con người

(ĐTTCO)-Tốc độ tăng trưởng GDP trong 4 năm 2016-2019 tăng dần với các mức 6,2%, 6,8%, 7,08% và 7,02%, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều yếu tố bất ổn và tăng trưởng chậm dần, cho thấy mặt tích cực của kinh tế Việt Nam. Vì thế,  những năm tới cải cách mạnh mẽ và đồng bộ về thể chế sẽ là động lực quan trọng nhất để thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao và ổn định.
Trong tình hình chung khó khăn của kinh tế thế giới, thì kinh tế Việt Nam là điểm sáng khi xuất khẩu vẫn tăng trưởng. Ảnh: VIẾT CHUNG
Trong tình hình chung khó khăn của kinh tế thế giới, thì kinh tế Việt Nam là điểm sáng khi xuất khẩu vẫn tăng trưởng. Ảnh: VIẾT CHUNG
Tốc độ tăng, đóng góp chưa ổn định
Xét trên 4 chỉ báo quan trọng nhất của kinh tế vĩ mô là tăng GDP; kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả; tăng việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp; tăng xuất khẩu, rõ ràng kinh tế Việt Nam đang là điểm sáng trong tình hình kinh tế chung của thế giới.
Kết quả này không chỉ có ý nghĩa về mặt tăng trưởng, quan trọng hơn nền kinh tế đang đổi chiều từ tăng trưởng chậm dần sang tăng trưởng cao dần, chấm dứt 15 năm tăng trưởng chậm dần. 
Cụ thể, giai đoạn 2001-2015 tăng bình quân 7,33%/năm, 2006-2010 bình quân 6,32%/năm, 2011-2015 bình quân 5,96%/năm và tiếp tục suy giảm khi bước vào kế hoạch 2016-2020. Nhưng từ quý II-2017 bắt đầu đổi chiều với tốc độ cao, tạo đà cho tăng trưởng cao và ổn định các năm 2017-2019.
Tuy nhiên, bên cạnh xu hướng tích cực của tốc độ tăng trưởng, các yếu tố đóng góp chưa ổn định. Nhiều lĩnh vực có mức tăng trưởng cao như công nghiệp chế biến, giá trị sản phẩm nông lâm ngư nghiệp, xuất khẩu, sức mua thị trường nội địa, du lịch, thị trường bất động sản… vẫn còn những tồn tại chưa được tháo gỡ, đã và đang ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng năm 2019 và 2020. 
Yếu tố nữa cần quan tâm là đầu tư công giảm dần nên vai trò tác động lan tỏa của đầu tư công như những năm trước cũng giảm dần… Trong khi đó, nhiều năm tới bài toán vĩ mô của Việt Nam vẫn là chất lượng tăng trưởng gắn với đổi mới thể chế, cùng với diễn biến phức tạp của kinh tế và thương mại toàn cầu, nên sự điều hành chính sách kinh tế - tài chính của Chính phủ vẫn phải thực hiện “mục tiêu kép” chất lượng và tốc độ tăng trưởng. 
Nhìn chung trong 2 năm 2019-2020 có nhiều triển vọng đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 7%/năm và bình quân 5 năm 2016-2020 là 6,8% (mục tiêu kế hoạch bình quân 6,5-7%). Xét về tiềm năng, địa - kinh tế của quốc gia và thời cơ của thời đại có bước nhảy vọt về thành tựu khoa học công nghệ, nếu biết tận dụng để khai thác có hiệu quả 4 trụ cột kinh tế. 
(1) Khai thác có hiệu quả nhất nền nông nghiệp nhiệt đới, tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu, thông qua đổi mới mô hình tổ chức sản xuất và ứng dụng công nghệ cao. 
(2) Khai thác lợi thế của kinh tế biển (bao gồm các khu kinh tế ven biển) và dịch vụ cảng - logistics. Kinh tế biển không chỉ tạo sức lan tỏa cho các ngành kinh tế khác phát triển, còn phục vụ mục tiêu an ninh, quốc phòng, gìn giữ chủ quyền biển đảo. 
(3) Phát triển ngành công nghiệp du lịch nhằm đưa Việt Nam thành điểm đến của du lịch toàn cầu.
(4) Phát triển kinh tế đô thị gắn với quá trình đô thị hóa (đây là dư địa rất lớn khi đô thị hóa mới đạt khoảng 36-38%). Trong đó, những vấn đề như ứng dụng những thành tựu của cách mạng công nghệ 4.0, kinh tế kỹ thuật số hay đổi mới, sáng tạo, khởi nghiệp… là cách thức để phát triển nhanh 4 trụ cột này.

Cải cách thể chế để bứt phá
 Hàng chục đạo luật về kinh tế Quốc hội mới ban hành tại nhiệm kỳ trước, đến nhiệm kỳ này phải sửa vì mâu thuẫn xung đột khi thực thi.
Cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả hiệu lực của bộ máy hành chính đã được đặt ra từ nhiều thập niên qua, nhưng đến nay sự bất cập trong quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội ở nhiều lĩnh vực vẫn tồn tại.
Tính phức tạp diễn biến cùng chiều với sự tăng trưởng kinh tế, phát triển thị trường và hội nhập quốc tế. Vấn đề đặt ra, nếu thiếu tư duy hệ thống về quản lý nhà nước phù hợp với sự vận hành của thể chế kinh tế thị trường, mọi nỗ lực cải cách riêng lẻ sẽ không mang lại hiệu quả, tính mâu thuẫn và phức tạp ngày càng tăng thêm.
Điển hình là hàng chục đạo luật về kinh tế Quốc hội mới ban hành tại nhiệm kỳ trước, đến nhiệm kỳ này phải sửa vì mâu thuẫn xung đột khi thực thi.
Những năm qua, Chính phủ đã thể hiện quyết tâm cải thiện chất lượng công vụ bộ máy hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính, đã mang lại niềm tin và kỳ vọng đối với một Chính phủ hành động, và trên thực tế bước đầu đã mang lại những chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, để các Nghị quyết của Chính phủ nhanh chóng thành hiện thực của đời sống kinh tế - xã hội, nâng cao tính cạnh tranh môi trường đầu tư kinh doanh, trong điều kiện hội nhập khu vực và toàn cầu, cần cải cách đồng bộ cả 3 bộ phận thể chế hành chính, bộ máy và con người. 
Do đó, cần có quan điểm đổi mới, hoàn thiện thể chế mạnh mẽ và mang tính đồng bộ dựa trên 5 nhóm nội dung. Thứ nhất, làm rõ và minh định chức năng Nhà nước, với tư cách là 1 trong 3 chủ thể của kinh tế thị trường (Nhà nước, người sản xuất và người tiêu dùng hay Nhà nước, doanh nghiệp và người dân).
Nhà nước không làm thay thị trường và làm thay người dân trong quan hệ dân sự. Đây là cơ sở để xây dựng bộ máy công vụ và hành chính công quyền.
Thứ hai, xóa bỏ tư duy cơ cấu kinh tế địa phương, tách biệt hoạt động kinh tế với hành chính công quyền; hình thành các vùng kinh tế; xây dựng các chương trình phát triển quốc gia thay cho các loại chính sách ưu đãi tràn lan.
Thứ ba, xóa bỏ tư duy lồng ghép công vụ, phân định công vụ quốc gia và công vụ địa phương, không có công vụ nhà nước chung chung. Đây là nền tảng xây dựng mô hình chính quyền địa phương, cụ thể hóa cơ chế phân cấp, phân quyền và ủy quyền giữa Trung ương và địa phương theo từng lĩnh vực quản lý nhà nước, kiểm soát lạm quyền, bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và phát huy vai trò của các cơ quan dân cử địa phương.
Thứ tư, tách biệt ngân sách quốc gia và ngân sách địa phương, xóa bỏ cơ chế ngân sách lồng ghép gọi chung là ngân sách nhà nước như hiện nay. Đây là cơ sở để cải cách nền tài chính quốc gia, xóa cơ chế xin cho về ngân sách. 
Thứ năm, phát huy vai trò các định chế tài chính phi lợi nhuận thay cho quan điểm xã hội hóa về dịch vụ công hiện nay. Nhà nước cung cấp dịch vụ công ích, nhất là lĩnh vực y tế, giáo dục, nghiên cứu khoa học, công nghệ một phần gián tiếp qua các định chế phi lợi nhuận. 
Ông PHẠM QUANG VINH, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Mỹ: 

Phải cảnh giác

Cạnh tranh Mỹ - Trung là cạnh tranh chiến lược đã được đẩy lên từ khi ông Donald Trump lên cầm quyền. Đây thực chất là cuộc cạnh tranh ngôi vị số 1 và số 2 thế giới nên sẽ lâu dài, lúc căng lúc giảm song không triệt tiêu nhau. Giữa Mỹ và Trung, thương chiến đang diễn ra là cuộc chiến tiền tiêu, được đẩy lên cao nhất, biện pháp đầu tiên được sử dụng là thuế quan. Chúng ta cần hiểu rõ những điều này để từ đó có sự ứng phó thích hợp và kịp thời.
Riêng trong mối quan hệ của Việt Nam với khu vực, tôi nhận thấy khu vực châu Á - Thái Bình Dương có cái hay là khi xu hướng bảo bộ tăng lên, chiến tranh thương mại tăng, khu vực này vẫn hội nhập và thuận lợi hóa thương mại. Tuy nhiên hiện nay trong sự bất định và khó lường của Tổng thống Donald Trump, các nước trong khu vực ASEAN lại đang chờ thời, nên khi chúng ta làm Chủ tịch ASEAN sẽ phải đối diện với thách thức này. 
Về quan hệ Việt Nam và Mỹ, 25 năm qua 2 phía đều có kế hoạch đưa quan hệ lên tầm cao mới, nhưng chưa rõ định hướng đi lên như thế nào. Thí dụ, Việt Nam có những điểm thuộc ưu tiên của Mỹ nhưng cũng là điểm ngược nổi nhất là thâm hụt thương mại. Vị trí chiến lược của Việt Nam rất tốt nhưng nếu có hành vi có thể đánh thuế nào đó, cán cân trong vị trí thuận lợi của Việt Nam sẽ giảm nhiều. Năm 2020 cục diện thế giới vẫn tiếp tục phức tạp, những rủi ro năm 2019 ít hơn, sang 2020 càng phải cảnh giác nhiều hơn. 
TS. VŨ TIẾN LỘC, Chủ tịch Phòng Thương mại - Công nghiệp Việt Nam (VCCI): 

Năm khó khăn 

2020 dự báo là năm khó khăn hơn với cộng đồng DN. Đó là việc DN thành lập mới nhiều nhưng 60% kinh doanh trong tình trạng không có lãi, không phát sinh thuế thu nhập DN. 3 năm qua nguồn thu từ khu vực sản xuất kinh doanh trong ngân sách nhà nước không đạt dù kế hoạch được điều chỉnh xuống.
Về xuất khẩu phần lớn sang các thị trường giảm hoặc tăng không đáng kể, chỉ tăng cao ở thị trường Mỹ nhưng đi kèm với lo. 30% GDP vẫn thuộc hộ kinh tế gia đình, một khu vực còn rất hoang sơ. Chỉ số cải thiện môi trường kinh doanh theo xếp hạng của WB bị tụt hạng, khiến hành trình đạt mục tiêu nằm trong top 4 ASEAN của Việt Nam còn rất xa.
Năm 2016 chúng ta đã đồng loạt cắt giảm 1.000 điều kiện kinh doanh. Năm 2018 tiếp tục cắt giảm và đơn giản hóa 50% điều kiện kinh doanh, kiểm tra chuyên ngành. Cuối năm 2019 VCCI đã đề xuất 20 điểm chồng chéo pháp luật đầu tư kinh doanh. Đây là điểm cản trở lớn trong việc đưa các dự án vào đầu tư, hoạt động tạo ra sản phẩm cho xã hội.
Nếu tập trung giải quyết những điểm nghẽn về luật pháp liên quan đầu tư kinh doanh, sẽ tạo đột phá quan trọng về môi trường đầu tư kinh doanh. Bên cạnh đó cần có những biện pháp thúc đẩy, nâng cấp sự phát triển của DN. Có như vậy, bức tranh kinh tế 2020 sẽ tươi sáng hơn. 
T. DUNG (ghi)

Các tin khác