Đây là vấn đề được lãnh đạo TPHCM, Đồng Nai và Tây Ninh chia sẻ tại hội nghị “Ngân hàng góp phần tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh vùng Đông Nam Bộ” được tổ chức hôm nay 11-5.
Ngại tiếp cận các gói tín dụng ưu đãi
Phát biểu tại hội nghị, ông Phan Văn Mãi, Chủ tịch UBND TPHCM cho biết, quý IV-2022 và quý I-2023 tình hình kinh tế của TP gặp rất nhiều khó khăn. Số DN thành lập mới là 14.752 DN với số vốn đăng ký là144.568 tỷ đồng, giảm 9,5% về số lượng và giảm 24,79% về vốn đăng ký so với năm 2022. Số DN tạm ngừng hoạt động tăng 23,88% so với cùng kỳ, số vốn đầu tư nước ngoài vào TP cũng giảm 23,45% so với cùng kỳ.
Những con số này cho thấy tình trạng sức khoẻ của DN, một lực lượng quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế của TP. Theo Chủ tịch UBND TPHCM, qua nhiều lần làm việc với Hiệp hội DN TPHCM ghi nhận loạt vấn đề. Chẳng hạn, có gần 55% số DN sản xuất cầm chừng, giữ lao động và gần như không có nhu cầu tín dụng do không có đơn hàng. Trong khi đó, một bộ phận DN có nhu cầu vốn lưu động để giải quyết nhu cầu thanh toán ngắn hạn tạo tính thanh khoản.
Nhiều trường hợp DN có kế hoạch thanh toán các khoản vay đến hạn gặp khó khăn do hàng bán không được (hàng tồn kho tăng), hoặc bị nợ đọng vốn. Dù thiếu vốn nhưng DN ngại tiếp cận các gói tín dụng ưu đãi do nhu cầu tín dụng, một mặt ngại các vấn đề liên quan đến cơ quan chức năng. "Đối với lĩnh vực bất động sản (BĐS), người mua ngại vay và mong muốn có chính sách ưu đãi cho người mua nhà để yên tâm vay vốn", ông Phan Văn Mãi chia sẻ.
Các khó khăn nói trên hiện cũng là câu chuyện chung của khu vực. Theo bà Nguyễn Thị Hoàng, Phó chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai, tiềm năng và nhu cầu vốn của các DN trên địa bàn hiện rất lớn, nhưng DN ngại khi tham gia vào gói ưu đãi 2% lãi suất sẽ phải làm việc nhiều với các đoàn thanh tra, kiểm toán... Đến ngày 31-3, toàn tỉnh chỉ có 59 DN được vay.
Còn theo ông Dương Văn Thắng, Phó chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh, các DN có sự cân nhắc giữa lợi ích của gói ưu đãi và các chi phí phải bỏ ra nên đến nay toàn tỉnh chỉ giải ngân được 677 tỷ đồng theo gói này. Về lãi suất, ông Thắng cho rằng lãi vay được điều chỉnh nhưng vẫn ở mức cao, lãi ngắn hạn trước đây chỉ khoảng 7-9%, hiện nay phổ biến ở mức 10-11%/năm. Lãi suất cho vay trung và dài hạn trước đây 8,5-11%/năm, nay là 11-13%/năm nên nhiều DN vẫn cân nhắc vay vốn.
Thay mặt các DN của TPHCM, ông Phan Văn Mãi cũng đã kiến nghị NHNN mong muốn lãi suất giảm xuống còn 7-8%/năm, có các giải pháp về vốn, tín dụng, giải quyết nhu cầu thanh toán cho các NH, kéo dài chính sách hỗ trợ DN trong việc giãn, hoãn, không chuyển nhóm nợ xấu đối với các trường hợp khó khăn. Đối với các khoản vay mới, nghiên cứu có giải pháp không siết, định giá tài sản thế chấp, tỷ lệ giải ngân trên tài sản, các trường hợp có đơn hàng, lịch sử tín dụng tốt có thể mở rộng tín chấp…
Nhiều tác động cộng hưởng lên khả năng tiếp cận tín dụng
Phía NHNN, Phó Thống đốc Đào Minh Tú, thừa nhận các giải pháp điều hành chính sách đều hướng tới tháo gỡ khó khăn cho người dân và DN, kịp thời cung ứng vốn tín dụng để góp phần phục hồi và tăng trưởng kinh tế. Mặc dù NHNN đã và đang triển khai đồng bộ các giải pháp này, song tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm vẫn thấp, xuất phát chủ yếu từ nhiều nguyên nhân.
Phó Thống đốc thường trực NHNN Đào Minh Tú phát biểu tại hội nghị |
Nguyên nhân thứ nhất là nền kinh tế nước ta có độ mở lớn, hoạt động của các DN phụ thuộc rất lớn vào kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh khó khăn chung, cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh giảm, dẫn tới cầu tín dụng giảm tương ứng. Nguyên nhân thứ 2 theo ông Đào Minh Tú là một số nhóm khách hàng có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn/hoặc còn vướng mắc về thủ tục pháp lý.
Phó Thống đốc nêu dẫn chứng các DN nhỏ và vừa tiếp cận hạn chế là do quy mô vốn nhỏ, vốn chủ sở hữu và năng lực tài chính, quản trị điều hành còn hạn chế; thiếu phương án kinh doanh khả thi; thông tin tài chính còn thiếu minh bạch làm ảnh hưởng đến việc thẩm định của các TCTD; các giải pháp tăng khả năng tiếp cận tín dụng thông qua các cơ chế hỗ trợ của nhà nước còn chưa phát huy hiệu quả.
Cũng theo Phó Thống đốc, mọi năm tín dụng BĐS thường tăng cao, kéo theo tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống tăng. Tuy nhiên, năm nay do thị trường BĐS khó khăn, tín dụng BĐS tăng chậm, ảnh hưởng tới tăng trưởng tín dụng chung.
Một nguyên nguyên nữa được ông Đào Minh Tú nhắc đến là sau thời gian dài nền kinh tế gặp khó khăn, mức độ rủi ro của khách hàng bị đánh giá cao hơn, nhất là khi hoạt động của DN khó chứng minh hiệu quả trong bối cảnh hiện nay như: chi phí đầu vào, nguyên vật liệu nhập khẩu ở mức cao, trong khi thị trường đầu ra, đơn hàng, doanh thu giảm… Điều này dẫn tới việc các TCTD rất khó khăn trong quyết định cho vay do không thể hạ chuẩn tín dụng để đảm bảo an toàn hệ thống.
Mặt khác, sự kiện rút tiền hàng loạt của SCB và sự kiện đổ vỡ một số NH Mỹ và châu Âu đã khiến các TCTD cẩn trọng hơn trong việc quản trị hoạt động để đảm bảo an toàn thanh khoản, đáp ứng nhu cầu chi trả người dân nên việc cấp tín dụng được xem xét thận trọng hơn trong bối cảnh hiện nay.
Phó Thống đốc cũng cho biết, đối với với khu vực Đông Nam Bộ, ngoài các khó khăn chung nêu trên, các khó khăn, vướng mắc riêng của vùng đã tác động cộng hưởng dẫn tới tăng trưởng tín dụng của khu vực thấp hơn so với toàn quốc. Đáng chú ý, mạng lưới kết cấu hạ tầng cấp vùng, liên vùng, nhất là hạ tầng giao thông kết nối nội vùng và liên vùng còn thiếu, yếu, chưa đồng bộ, ảnh hưởng đến sự phát triển và sức lan tỏa của vùng.
Kinh doanh BĐS là ngành trọng yếu của khu vực, đặc biệt là tại TPHCM. Vì vậy, những khó khăn của thị trường, nhất là vấn đề về pháp lý dẫn tới các dự án mới chậm được triển khai đã ảnh hưởng lan tỏa tới các ngành có liên quan như xây dựng, vật liệu xây dựng. Giải ngân đầu tư công còn chậm, thấp hơn mức trung bình cả nước, ảnh hưởng tới sức cầu nền kinh tế và tác động gián tiếp tới cầu tín dụng.
Hiện NHNN đang triển khai các giải pháp, chính sách để thúc đẩy tăng tín dụng. Đồng thời, Phó Thống đốc NHNN cũng đề nghị các địa phương tại Đông Nam Bộ cùng triển khai các giải pháp kích cầu tiêu dùng nội địa; xúc tiến thương mại, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu các sản phẩm thế mạnh, đặc thù của địa phương, nhất là các thị trường lớn, các thị trường còn nhiều dư địa khai thác.
Các địa phương hỗ trợ hoàn thiện thủ tục pháp lý các dự án đầu tư nói chung và bất động sản nói riêng trên địa bàn. Rà soát vướng mắc của thị trường BĐS, tháo gỡ các vấn đề về nguồn cung và cơ cấu sản phẩm. Bên cạnh đó, NHNN cũng đề nghị các địa phương triển khai các chính sách hỗ trợ DN phù hợp với đặc thù của từng tỉnh, thành phố và phù hợp với định hướng phát triển địa phương.