Đó là nhận định chung của các chuyên gia tại tọa đàm “Tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam” do Viện Nghiên cứu Chiến lược thương hiệu và Cạnh tranh phối hợp với Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban Kinh tế Trung ương tổ chức sáng 29-8 tại Hà Nội.
Hiện nay, nhìn tổng thể tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp luôn thấp hơn tăng trưởng GDP của Việt Nam, như năm 2019 tăng trưởng GDP của Việt Nam là 7,15% trong khi tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp chỉ là 2,01%. Thời gian từ 2020-2021 bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19 nên tăng trưởng GDP của Việt Nam tụt giảm còn 2,94% năm 2020 và 2,59% năm 2021.
Dẫu vậy, thời gian này tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp vẫn duy trì 2,68% năm 2020 và 2,90% năm 2021. Sang năm 2022 do có sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ sau đại dịch nên tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2022 đạt 11,34% và tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp cũng tăng hơn so với các năm trước đạt 3,36%.
Theo các chuyên gia, dù được xem là thế mạnh trong xuất khẩu của Việt Nam, song nhiều nhóm nông sản xuất khẩu mang tính chủ lực hiện nay đang phải đối mặt với nhiều thách thức |
Điều này cho thấy nông nghiệp là lĩnh vực đặc biệt quan trọng, là một “trụ đỡ” cho ổn định kinh tế-xã hội và nâng cao chất lượng sống cho người dân, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, nhiều nhóm mặt hàng nông sản xuất khẩu mang tính chủ lực của Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức.
Theo TS Trần Thị Thu Hiền, Viện Nghiên cứu chiến lược chính sách công thương (Bộ Công Thương), có 5 thách thức lớn đối với các doanh nghiệp nông nghiệp của Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất, quá trình hội nhập quốc tế làm gia tăng cạnh tranh khi Việt Nam đã ký kết tham gia và đàm phán 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA). Việc tham gia FTA sẽ thu hút nhiều vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp, song đây cũng là thách thức lớn đặt ra cho các doanh nghiệp trong nước trước xu hướng đầu tư vào ngành nông nghiệp của các nhà đầu tư nước ngoài với lợi thế cả về tài chính, công nghệ và thị trường.
Quá trình hội nhập làm thu hẹp một số lĩnh vực sản xuất có khả năng cạnh tranh thấp, các nước đang phát triển mạnh sản xuất nông sản với chất lượng cao cũng trở thành đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trên các thị trường xuất khẩu gạo như Campuchia, Myanmar, xuất khẩu thủy sản như Ấn Độ, Mexico, Indonesia.
Thứ hai, yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng nông sản xuất khẩu ngày càng cao. Các quốc gia và người tiêu dùng trên thế giới đang đặt mục tiêu phát triển bền vững, giảm phát thải cacbon. Nông sản Việt Nam đối mặt với nguy cơ chịu mức thuế đối với sản phẩm có mức phát thải lớn. Đây cũng là một trong những thách thức với xuất khẩu nông sản Việt Nam trong khi hệ thống truy xuất nguồn gốc, quản lý khai thác chưa được thực hiện bài bản, nhiều doanh nghiệp nông nghiệp bắt đầu quá trình đổi mới để thích ứng được với bối cảnh mới.
Thứ ba, sự quay lại của chủ nghĩa bảo hộ thương mại. Những biến động kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới như dịch bệnh Covid-19, xung đột Nga - Ukraine, xung đột thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc, xung đột lãnh thổ trong các khu vực và giữa các nền kinh tế lớn, thay đổi trong chính sách thương mại của các quốc gia dẫn đến xu hướng bảo hộ gia tăng.
Thứ tư, đòi hỏi đáp ứng yêu cầu cao về công nghệ. Để đảm bảo các quy định về kỹ thuật, quy tắc xuất xứ, tiêu chuẩn về chất lượng, đáp ứng yêu cầu về môi trường đối với xuất khẩu nông sản chủ lực, cần đáp ứng các yêu cầu về công nghệ sản xuất hàng nông sản xuất khẩu, đặc biệt là công nghệ số như hiện nay.
Thứ năm, nguồn tài nguyên dần cạn kiệt, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh đang đe dọa đến tính phát triển bền vững của nông nghiệp. Đáng chú ý, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào điều kiện khí hậu, vì vậy thách thức trực tiếp và lâu dài đến sản xuất nông nghiệp là tác động của biến đổi khí hậu. Hiện nay, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu. Theo tính toán, nếu mực nước biển dâng cao sẽ khiến gần 50% diện tích đất nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng bị ngập và không còn khả năng canh tác.
Những thách thức trên đòi hỏi Việt Nam cần phải có những chính sách đồng bộ và hiệu quả để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nông nghiệp nói riêng và ngành nông nghiệp nói chung phát triển bền vững, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
Theo đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham), nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang EU phải đáp ứng được các yêu cầu về tăng trưởng xanh và giảm phát thải. Bên cạnh đó, EU rất quan tâm đến việc xây dựng vùng nguyên liệu an toàn dịch bệnh, đáp ứng được các tiêu chuẩn của thế giới.
Trước đó, tháng 7-2021, EU đã trình đề xuất về quy định thiết lập Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) như một trong những sáng kiến nhằm thúc đẩy việc giảm phát thải khí nhà kính và đạt trung hòa carbon vào năm 2050. Mục tiêu của CBAM là giải quyết nguy cơ rò rỉ carbon do các chính sách khí hậu thiếu chặt chẽ của các quốc gia không thuộc EU, đồng thời bổ trợ cho Cơ chế trao đổi hạn ngạch phát thải của EU (EU-ETS).