Hỗ trợ chưa thực chất
Trong các gói hỗ trợ DN được triển khai, gói 300.000 tỷ đồng được giao cho Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ trì, chỉ đạo các NH thương mại (NHTM) tham gia. Gói này đến nay ước đạt 700.000-800.000 tỷ đồng, vượt xa mục tiêu ban đầu.
Theo đó, các NHTM hỗ trợ DN giảm lãi suất, cơ cấu lại nợ, không chuyển nhóm nợ. Nhưng đặc điểm của gói tín dụng hỗ trợ này là sử dụng nguồn tiền của các NHTM, không phải tiền của Chính phủ, nên chỉ DN là khách hàng tốt của NH mới được hưởng. Có nghĩa phần lớn DN được hưởng ưu đãi từ gói hỗ trợ này là khách hàng hiện hữu của NH, không phải khách hàng mới.
Như vậy những DN bị tác động mạnh bởi dịch bệnh sẽ khó tiếp cận gói hỗ trợ tín dụng trên. Bởi lẽ dù NHNN có “mở” cho NHTM nhưng lại “đóng” khi yêu cầu các NHTM không được cho vay dưới chuẩn. Vì thế, tôi đánh giá gói hỗ trợ tín dụng này không hiệu quả để giúp DN, đặc biệt là DNNVV và DN bị tác động bởi dịch bệnh.
Gói thứ hai là gói giãn thuế 180.000 tỷ đồng. Đây là điều tốt cho các DN, nhưng chỉ tốt cho những DN có lãi, có doanh thu, còn những DN không có lãi, không có doanh thu thì giảm, giãn thuế không có nhiều ý nghĩa.
Như vậy, gói này cũng có tác động nhưng hiệu quả không nhiều đối với các DN gặp khốn khó trong dịch bệnh, đặc biệt là những DNNVV. Còn lại gói 16.000 tỷ đồng cho DN vay với lãi suất bằng 0% để trả lương cho công nhân ngừng việc lại không biết đã có bao nhiêu DN được hưởng, trong khi nhiều DN cho biết họ không thể tiếp cận được.
Chính sách tiền tệ không tác dụng
Chính sách tiền tệ không tác dụng
Nghị định 34 của Chính phủ bắt buộc các quỹ BLTD phải hoạt động dưới nguyên tắc bảo toàn vốn, tức là nếu làm thất thoát vốn của ngân sách khi bảo lãnh sẽ bị xử lý. Với nguyên tắc đó, sẽ không có ai dám đứng ra bảo lãnh. Những điều đó làm hạn chế hoạt động của quỹ BLTD. |
Còn chính sách tiền tệ, việc cơ cấu lại nợ, không chuyển nhóm nợ, giảm lãi suất đều là những giải pháp tốt nhưng tác động chưa được bao nhiêu. Tăng trưởng tín dụng trong 6 tháng đầu năm chỉ 2,13%, quá thấp so với cùng kỳ năm ngoái. Điều này cho thấy chính sách tiền tệ cũng không vực dậy được nền kinh tế.
Cho vay là hoạt động chủ yếu của ngành NH mỗi năm đều đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng, như năm nay là 14%. Có nghĩa, nếu Chính phủ không yêu cầu thực hiện gói hỗ trợ này, NH vẫn phải tìm cách để cho vay.
Vì thế, lãi suất huy động giảm không hoàn toàn do chính sách tiền tệ mà do thị trường. Bởi các NH huy động vốn được nhưng không cho vay ra được, buộc họ phải giảm lãi suất. Tức tác động của chính sách tiền tệ thông qua việc NHNN bơm dòng tiền vào nền kinh tế, giảm lãi suất điều hành cũng chỉ phần nào giúp giảm lãi suất.
Thực ra khi có chủ trương mở gói tín dụng hỗ trợ và đi vào thực hiện, NH không thể tìm đến các DN nhỏ đầy rủi ro, trong khi rất nhiều khách hàng lớn gặp khó khăn đang chờ được vay. Đó là chênh vênh giữa chủ trương và thực tế.
Do vậy việc tuyên bố khách hàng đủ chuẩn mới được vay không phải là thoái thác trách nhiệm, mà họ quan tâm đến mục tiêu lợi nhuận, mục tiêu an toàn vốn, nên chỉ quan tâm những khách hàng nào trả được nợ cho NH.
Với mục tiêu như vậy, các NH cũng đáp ứng được yêu cầu của Chính phủ và của xã hội là giúp DNNVV và các DN bị tác động bởi dịch bệnh “được chọn”, không thể đáp ứng được tất cả nhu cầu cho cộng đồng DN.
Theo tôi, việc Chính phủ đưa ra gói 300.000 tỷ đồng không có nhiều ý nghĩa. Nếu muốn gọi là gói hỗ trợ cần phải đưa ra những tiêu chí chính xác về đối tượng được hỗ trợ.
Chẳng hạn, DN chịu tác động dịch bệnh khiến doanh thu, lợi nhuận hay lượng người lao động sụt giảm với tỷ lệ bao nhiêu phần trăm, thuộc lĩnh vực hoạt động nào (xuất khẩu hàng tiêu dùng, hàng nông thủy sản…), hay có đầu ra ở thị trường nước nào… sẽ nằm trong nhóm được hỗ trợ.
Phải đưa ra những chỉ tiêu như thế và gói 300.000 tỷ đồng nhắm vào những đối tượng đó, kết quả thực hiện báo cáo thường xuyên cho NHNN và Chính phủ. Còn nếu tiêu chí không rõ ràng, tất cả dư nợ cho khách hàng lớn và nhỏ đều cộng vào gói hỗ trợ, trong khi như đã nói nếu không có gói hỗ trợ, các NH vẫn phải tìm khách hàng tốt để tăng trưởng tín dụng.
Vai trò quỹ bảo lãnh tín dụng lu mờ
Vai trò quỹ bảo lãnh tín dụng lu mờ
Tăng trưởng tín dụng trong 6 tháng đầu năm chỉ 2,13%, quá thấp so với cùng kỳ năm ngoái. Điều này cho thấy chính sách tiền tệ cũng không vực dậy được nền kinh tế. |
Như tôi nhiều lần chia sẻ với ĐTTC, Mỹ áp dụng rất tốt cơ chế bảo lãnh tín dụng cho DNNVV thông qua Cơ quan quản lý DN nhỏ (SBA). SBA sẽ xét duyệt hồ sơ và chuyển đến các NH, bảo lãnh cho DN, để các NH cho DN đó vay. Việt Nam cũng có cơ chế BLTD và thực hiện theo Nghị định 34 của Chính phủ.
Song hình thức BLTD của Việt Nam không hiệu quả, vì các quỹ BLTD cho DNNVV trực thuộc địa phương, vốn điều lệ tối thiểu là 100 tỷ đồng. Với ngân sách không dồi dào của các địa phương, tôi nghĩ các quỹ cũng khó có vốn điều lệ vượt quá quy định tối thiểu này.
Hơn nữa, quỹ BLTD lại không thể bảo lãnh quá 3 lần trên vốn tự có, vậy mỗi quỹ chỉ bảo lãnh được tối đa 300 tỷ đồng, không có nhiều ý nghĩa đối với nhu cầu vốn của DN. Hơn nữa, Nghị định 34 của Chính phủ bắt buộc các quỹ BLTD phải hoạt động dưới nguyên tắc bảo toàn vốn, tức là nếu làm thất thoát vốn của ngân sách, khi bảo lãnh sẽ bị xử lý.
Với nguyên tắc đó, sẽ không có ai dám đứng ra bảo lãnh, vì không bảo lãnh thì không rủi ro. Những điều đó làm hạn chế hoạt động của quỹ BLTD.
Vì vậy, tôi đề nghị phải có quỹ BLTD quốc gia, vốn từ ngân sách quốc gia và có chi nhánh tại các địa phương và các địa phương cũng có thể có quỹ bảo lãnh của địa phương. Quỹ BLTD quốc gia phải có vốn điều lệ khoảng 10.000 tỷ đồng chứ không thể chỉ 100 tỷ đồng, và tỷ lệ có thể bảo lãnh ít nhất 5 lần vốn điều lệ, tương đương mức bảo lãnh 50.000 tỷ đồng dư nợ.
Tuy mức này không thấm vào đâu so với gần 9 triệu tỷ đồng dư nợ cho cả nền kinh tế, nhưng vẫn tốt hơn so với dùng quỹ BLTD địa phương, và đây là cơ chế hiệu quả nhất để giúp các DN. Vì Chính phủ chỉ có thể giãn, giảm thuế chứ không thể phát tiền cho DN được.
Nguồn vốn để hỗ trợ xây dựng quỹ BLTD quốc gia đương nhiên phải từ ngân sách. Đồng thời vẫn còn có một nguồn nữa có thể tận dụng là nguồn hỗ trợ của các tổ chức tài chính thế giới. Tôi đã nói chuyện với NH Phát triển Á Châu (ADB) và nhận thấy quan điểm của họ luôn sẵn sàng hỗ trợ Chính phủ Việt Nam.
Vì vậy, tôi nghĩ Chính phủ có thể mời gọi sự đóng góp của các tổ chức tài chính thế giới, nhưng với điều kiện cam kết là nguồn hỗ trợ không bị thất thoát do tham nhũng, không bị thẩm thấu qua lớp này lớp kia để chảy ra ngoài mục tiêu hỗ trợ.
Đừng để chết mới cứu
Hiện nay nhu cầu cấp thiết của các DN là làm sao duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh để vượt qua dịch bệnh. Muốn duy trì được như vậy là phải duy trì được tính thanh khoản, có khả năng chi trả (trả tiền cho nhà cung cấp, cho người lao động, trả nợ cho NH, trả thuế phí cho Chính phủ và tất cả những chi phí khác). Nếu mất thanh khoản, DN có thể chết ngay, bởi khi đó dù có tiềm năng, có thị trường cũng không đủ sức để duy trì.
Chính sách giảm thuế, hỗ trợ người lao động (NLĐ) rất cần thiết, vì NLĐ cần được duy trì để khi nền kinh tế hồi phục, lực lượng lao động còn đó để giúp nền kinh tế phục hồi. Còn nếu lực lượng lao động mất đi, không còn có ai có thể vực dậy nền kinh tế.
Về phía các DN, tôi cho rằng phải có tiếng nói mạnh mẽ hơn. Các DN phải tận dụng cơ hội gặp gỡ tại các hội nghị, các cuộc đối thoại để kêu gọi sự trợ giúp một cách quyết liệt, hay hiến kế cho Chính phủ xây dựng giải pháp hỗ trợ.