Thúc đẩy tăng trưởng nhưng vẫn kiểm soát được lạm phát

(ĐTTCO) - Để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8%, NHNN định hướng tăng trưởng tín dụng ở mức 16% và có thể cao hơn nếu tăng trưởng kinh tế đạt hơn mức này. Liệu mục tiêu này có gây ra áp lực rủi ro lạm phát, ĐTTC đã có cuộc trao đổi với TS. Nguyễn Trí Hiếu.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

PHÓNG VIÊN: - Ông nhận định như thế nào về cơ hội và thách thức của mục tiêu tăng trưởng GDP đạt 8% trở lên?

TS. NGUYỄN TRÍ HIẾU: - Năm 2024, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng kinh tế 7,09%, nên 2025 tăng trưởng ở mức 8% tuy có thách thức nhưng không phải là điều quá khó khăn. Hiện tại, Việt Nam cũng đứng trước nhiều cơ hội. Đầu tiên là về ngoại thương, một trụ cột của nền kinh tế Việt Nam.

Năm 2024, xuất khẩu đã có sự tăng trưởng tốt và dự báo năm nay vẫn tiếp tục tăng trưởng tốt. Các sản phẩm của Việt Nam trên thị trường quốc tế cũng ngày càng cạnh tranh hơn, và được người tiêu dùng biết đến nhiều hơn.

Theo quan sát của tôi tại Mỹ, ở ngay thời điểm hiện tại, rất nhiều hàng hóa bao gồm hàng tiêu dùng và thực phẩm đến từ Việt Nam đang được bày bán phổ biến. Đồng thời, khi thế giới đang trong một giai đoạn nhiều biến động, nhưng thị trường xuất khẩu nòng cốt của Việt Nam có sức mạnh hàng đầu thế giới như thị trường Mỹ, châu Âu, thì ngành xuất khẩu Việt Nam vẫn sẽ thuận lợi.

Tiếp theo ở thị trường nội địa, Việt Nam cũng càng ngày càng phát triển hơn, từ hạ tầng cơ sở cho đến các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp cho đến dịch vụ. Thêm một điều nữa là năng suất lao động trong nước cũng tốt hơn, và đang được nâng cao thông qua những chương trình đào tạo người lao động và các chương trình giáo dục. Đó là các điều kiện để nền kinh tế sẽ phát triển hơn nữa.

photo-1-16190708796611028427236.jpg

Hiện cũng có nhiều thách thức tác động không nhỏ đối với kinh tế Việt Nam, như với nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Mỹ Donald Trump, thế giới sẽ phải đối mặt với những chính sách bảo hộ thương mại, trong đó Việt Nam cũng sẽ chịu tác động mạnh. Nhưng nhìn chung Việt Nam cũng có nhiều cơ hội thuận lợi hơn để có thể tăng trưởng ít nhất là 8%.

Còn với mục tiêu phấn đấu tăng trưởng hai con số, theo tôi, đây là một kỳ vọng rất lớn. Việt Nam cũng có cơ hội tăng trưởng như vậy nếu chúng ta dồn toàn lực vào tăng trưởng thông qua các chính sách, từ chính sách tín dụng đến chính sách tài khóa.

Tuy nhiên, nếu muốn đạt được mức tăng trưởng như thế có thể sẽ đối mặt với các rủi ro khi tăng trưởng nóng. Trong tăng trưởng nóng có một số vấn đề nảy sinh như phải bơm một lượng tiền rất lớn vào trong lưu thông để có thể tăng trưởng, điều này sẽ gây bùng nổ lạm phát.

- Hiện NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 16% khi mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức 8%. Và nếu tăng trưởng kinh tế đến 10%, tăng trưởng tín dụng phải ở mức 18-20%. Quan điểm của ông như thế nào về định hướng tăng trưởng tín dụng như vậy?

- Thực tế cho thấy, có một mối tương quan giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế. Trung bình hơn 2% tăng trưởng tín dụng sẽ giúp tăng trưởng 1% GDP. Nói cách khác, tăng trưởng tín dụng thường gấp 2-2,5 lần so với tăng trưởng GDP. Vì vậy, nếu tăng trưởng kinh tế 8%, tín dụng tăng ở mức 16%. Nếu tăng trưởng GDP khoảng 10%, tín dụng cũng phải tăng trưởng theo lên mức 20% là lẽ đương nhiên.

Nhưng thông thường, muốn tăng trưởng về mặt hàng hóa, sản xuất hàng hóa nhiều hơn, bắt buộc phải có tiền, nên hàng hóa và tiền tệ phải đi song hành với nhau. Không thể có chuyện tăng trưởng về mặt sản xuất hàng hóa mà không đẩy tín dụng, vì tiền tệ là một cấu phần quan trọng trong nền kinh tế.

Song hai vấn đề này phải đi với tốc độ tương đối thuận hòa với nhau. Nếu bên sản xuất đi nhanh nhưng tiền tệ đi chậm, cũng sẽ kéo vào khủng hoảng và từ đó có thể sẽ kéo lùi nền kinh tế. Tuy nhiên, lưu ý mức tăng trưởng tín dụng 20% là rất cao.

Tăng trưởng tín dụng mạnh rất dễ tạo ra lạm phát. Nếu lạm phát bùng nổ, tăng trưởng kinh tế có thể đạt mức tăng về con số, nhưng về thực chất tăng trưởng không có chất lượng. Vì vậy nên đối với các ngân hàng trung ương, vấn đề giữa kiểm soát lạm phát và tăng trưởng bền vững luôn là vấn đề khó khăn nhất trong chính sách tiền tệ.

- Vậy ông nhìn nhận gì về câu chuyện hài hòa giữa tăng trưởng tín dụng và kiểm soát rủi ro?

- Động lực tăng tín dụng năm nay một phần sẽ đến từ lĩnh vực sản xuất kinh doanh, để tạo ra tăng trưởng kinh tế. Nếu sản xuất được đẩy mạnh, người lao động cũng như là tất cả các phương tiện sản xuất như máy móc, đất đai sẽ được tận dụng để đẩy guồng máy của nền kinh tế, hâm nóng nền kinh tế lên. Và khi hâm nóng nền kinh tế lên, cần phải có tiền và tín dụng phục vụ nhu cầu này.

Tuy nhiên năm 2024, số doanh nghiệp phá sản tăng hơn so với các năm trước. Nhiều doanh nghiệp cho đến nay vẫn đang phải rất nỗ lực để phục hồi sau dịch Covid-19. Sức khỏe của doanh nghiệp yếu đi, nhưng vốn tín dụng dự kiến bơm ra nền kinh tế lại tăng thêm, thì vấn đề là họ có vay được không, dù doanh nghiệp đa phần sẵn sàng vay.

Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp vay được nhưng không thể sản xuất kinh doanh, họ có thể sẽ đổ tiền vào đầu tư vào bất động sản, chứng khoán… tạo ra một hệ lụy lớn. Nếu dòng vốn chủ yếu chảy vào khu vực đầu cơ, không đi vào sản xuất sẽ không tạo ra giá trị thực, làm tăng nguy cơ bong bóng tài sản.

Kinh nghiệm quá khứ cho thấy, rủi ro bong bóng tài sản sẽ khó kiểm soát hơn, kéo theo đó là nguy cơ nợ xấu tăng lên đe dọa an toàn hệ thống ngân hàng của Việt Nam. Đó là các vấn đề cần được quan tâm khi mở rộng tín dụng.

Ngoài ra, đến cuối năm 2024, tỷ lệ dư nợ tín dụng toàn hệ thống so với GDP danh nghĩa đã tiếp tục tăng lên khoảng 138%. Điều này có nghĩa là, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn tín dụng. Trong khi đó, một nền kinh tế phát triển bền vững, vốn phải đến từ thị trường vốn chứ không phải chủ yếu đến từ ngành ngân hàng.

- Xin cảm ơn ông.

Nếu nền kinh tế đi vào một giai đoạn tăng trưởng mới và ngân hàng vẫn tiếp tục đóng vai trò bà đỡ hỗ trợ tăng trưởng, tỷ lệ dư nợ tín dụng toàn hệ thống so với GDP danh nghĩa cũng sẽ tiếp tục tăng, càng tạo nên rủi ro cho nền kinh tế.

Các tin khác