Không dễ quản lý thuế thời kinh tế số

(ĐTTCO)-Trong các trường dạy kinh doanh, người học thường được chia sẻ: “Có hai thứ bạn không thể tránh trong cuộc đời, đó là cái chết và… thuế”. Chính vì vậy, các thiên đường thuế xuất hiện để tiếp tay cho thủ thuật xói mòn cơ sở tính thuế và chuyển giá (BEPS). Sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử (TMĐT), dịch vụ xuyên biên giới càng khiến các chính phủ đau đầu trong việc quản lý thuế, nhất là các hoạt động thanh toán giao dịch quốc tế.
Việt Nam không nằm ngoài xu hướng
Hệ thống luật quản lý thuế liên quan đến nhiều nước, do đó liên tục được sửa đổi, cập nhật để phù hợp với thực tế và chuẩn mực chung của thế giới. Thí dụ, Ấn Độ từ tháng 2-2016 đã áp dụng thuế khoán 6% đối với các hoạt động quảng cáo và liên quan trong trường hợp B2B đối với bên cung cấp dịch vụ không đăng ký kinh doanh.
Mới đây, từ tháng 4-2020, nước này đã áp dụng mức khoán 2% cho tất cả giao dịch điện tử bên mua có cư trú ở Ấn Độ hay địa chỉ IP xuất phát từ Ấn Độ, bất kể là giao dịch B2B hay B2C.
Còn các nước EU đang trong tiến trình thúc đẩy việc áp thuế các tập đoàn công nghệ lớn, thường được gọi là nhóm GAFA, vì các tập đoàn này chọn nơi đăng ký thuế khác với các nơi có nguồn doanh thu chính.
Nước Pháp đã tiên phong trong việc áp dụng mức thuế 3% doanh thu của các tập đoàn công nghệ cung cấp dịch vụ trên lãnh thổ Pháp. Mặc dù Mỹ và EU vẫn còn bất đồng trong cách tính thuế và thuế suất, nhưng việc việc áp thuế chỉ còn là vấn đề thời gian.
Cơ quan quản lý thuế Việt Nam không nằm ngoài xu hướng này. Quốc hội đã thông qua Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14. Chính phủ cũng vừa ban hành Nghị định 126/2020/NĐ-CP, quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế, trong đó đáng quan tâm là quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan và các ngân hàng thương mại (NHTM), tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (DVTGTT).
Quy định này đang thu hút sự chú ý của dư luận với câu hỏi: trách nhiệm cung cấp thông tin là như thế nào về phạm vi, mức độ? Đại diện Tổng cục Thuế cho biết việc thực hiện sẽ theo lộ trình, nghĩa là không phải tất cả thông tin của khách hàng ở NH sẽ chuyển cho cơ quan thuế ngay lập tức. Liệu có chắc cơ quan thuế chỉ yêu cầu thông tin của những trường hợp nghi vấn? 
Không dễ quản lý thuế thời kinh tế số ảnh 2
Vậy việc quản lý như thế nào
Ở nhiều nước, việc quản lý thuế thu nhập của các cá nhân không là vấn đề lớn, vì hệ thống thuế thu nhập cá nhân đã khá hoàn chỉnh, họ chỉ tập trung quản lý thuế đối với các khoản doanh thu phát sinh trong nước nhưng được chuyển ra nước ngoài. 
Còn ở Việt Nam, nếu căn cứ vào các thông tin từ cơ quan quản lý thuế, dường như họ đang ưu tiên nhắm đến những cá nhân đang cư trú ở Việt Nam và có nguồn thu nhập từ nước ngoài hay các hoạt động TMĐT. Vậy việc quản lý thuế nên thực hiện như thế nào?
Trước hết, cần có đơn vị đặc biệt ở cơ quan quản lý thuế như ở nhiều quốc gia khác. Những người làm việc trong đơn vị này am hiểu về các nền tảng công nghệ như sàn TMĐT (Amazon, Etsy, Shopify…), nền tảng chia sẻ nội dung (YouTube, Witch), nền tảng cung cấp dịch vụ như việc làm (Gig work, freelance work), chỗ ở (Aairbnb), đặc biệt là các mạng xã hội (Facebook, Zalo, Twitter, Instagram).
Ngoài ra, những người này cũng phải am hiểu về hệ thống mạng internet, các vấn đề bảo mật, truy tìm IP.
Tiếp đến là việc quản lý giấy tờ tùy thân, vì việc làm giả hay mượn giấy tờ tùy thân của người khác để mở tài khoản ngân hàng, đăng ký mã số thuế sẽ khiến cơ quan quản lý thuế phức tạp hơn trong việc xác định danh tính và truy thu thuế.
Cuối cùng, nên theo mô hình của nhiều nước, việc quản lý thuế thu nhập cá nhân cần được thực hiện triệt để, chặt chẽ. Theo đó, bất kỳ công dân trưởng thành nào cũng phải kê khai thu nhập hàng năm, theo lựa chọn cá nhân hoặc theo hộ gia đình. Việc kê khai đúng, đủ là trách nhiệm của người dân và cơ quan thuế có quyền hậu kiểm trong trường hợp nghi vấn.
Tổng cục Thuế cho biết việc thực hiện sẽ theo lộ trình, nghĩa là không phải tất cả thông tin của khách hàng ở NH sẽ chuyển cho cơ quan thuế ngay lập tức. Liệu có chắc cơ quan thuế chỉ yêu cầu thông tin của những trường hợp nghi vấn? 
Việc quản lý thuế đối với các hoạt động kinh tế số, trước tiên áp dụng với cá nhân cư trú trong nước là cần thiết trong việc thực hiện mục tiêu chung của chính sách thuế. Tuy nhiên, cũng quan trọng không kém là việc quản lý thuế các hoạt động TMĐT, cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng ở Việt Nam.
Cơ quan quản lý thuế cần tham khảo kinh nghiệm của các nước trong việc triển khai, tính toán thuế suất phù hợp. Bên cạnh đó, cần tích cực tham gia các thảo luận quốc tế, như sáng kiến BEPS của tổ chức OECD, trao đổi với cơ quan quản lý thuế ở các nước trong việc xây dựng các hiệp định tránh chồng thuế, trao đổi thông tin tự động.
Nghị định 126 sẽ sớm có thông tư hướng dẫn từ Bộ Tài chính, kỳ vọng việc yêu cầu NTHM hay DVTGTT cung cấp thông tin theo lộ trình, có nghĩa chỉ cung cấp thông tin của những trường hợp nghi vấn, không yêu cầu cung cấp hàng loạt. Việc quản lý thuế từ hoạt động kinh tế số phải luôn đặt mình trong tình trạng năng động, nếu không thể tiên đoán trước được các tình huống, ít ra cũng không bị lạc hậu với những thay đổi của nền kinh tế. 

------------
(*) Trường Đại học Kinh tế TPHCM, IPAG Business School Paris, và AVSE Global

Các tin khác