Từ của năm: “Permacrisis”
Các biên tập viên của Từ điển tiếng Anh Collins đã tuyên bố “permacrisis” là từ của năm 2022, có nghĩa là “một giai đoạn bất ổn và bất an kéo dài”. Permacrisis là từ ghép “permanent” (lâu dài) và “crisis” (những cuộc khủng hoảng), nó phản ảnh chính xác tình hình thế giới hiện nay. Có 3 cú sốc đã kết hợp để gây ra tình trạng hỗn loạn này.
Lớn nhất là địa chính trị bởi cuộc chiến của Nga đối với Ukraine, cũng như mối quan hệ ngày càng xấu đi giữa Mỹ và Trung Quốc. Sự đáp trả đối với Nga của Mỹ và châu Âu đã nới rộng khoảng cách giữa phương Tây và phần còn lại. Bởi phần lớn dân số thế giới ở các quốc gia không ủng hộ các biện pháp trừng phạt của phương Tây đối với Nga. Các rạn nứt cũng xuất hiện trong những nền tảng địa chính trị lâu đời, chẳng hạn liên minh giữa Mỹ và Ả Rập Saudi.
Đầu tiên là cuộc xung đột ở Ukraine dẫn đến cú sốc hàng hóa lớn nhất kể từ những năm 1970. Vì Ukraine là nhà xuất khẩu nông nghiệp quan trọng, nên chiến tranh tại đất nước này đe dọa gây ra nạn đói hàng loạt trên toàn cầu. Cho đến nay, cuộc xung đột Nga-Ukraine là lý do trực tiếp khiến lương thực và phân bón đắt đỏ hơn.
Tiếp theo là việc Nga ngưng xuất khẩu khí đốt đã phơi bày sự phụ thuộc lâu dài của châu Âu vào nguồn năng lượng này của Nga, khiến một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng của châu Âu không thể tiếp tục tồn tại. Điều này buộc các chính phủ phải chi hàng tỷ USD cho người tiêu dùng và thúc đẩy tìm kiếm các nguồn cung cấp mới. Và với chi phí năng lượng tăng cao khiến nhiều nước như Đức, Pháp phải cho hoạt động lại các nhà máy điện than, thậm chí là các nhà máy điện nguyên tử đã bị ngưng từ nhiều năm.
Giá năng lượng tăng vọt đã làm trầm trọng thêm cú sốc thứ 3, đó là sự mất ổn định kinh tế vĩ mô. Giá tiêu dùng đã tăng nhanh từ đầu năm 2022 do những hạn chế về nguồn cung sau đại dịch. Giá năng lượng và lương thực tăng chóng mặt, lạm phát tăng cao trở thành vấn đề nóng toàn cầu. Từ Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed), đến các ngân hàng trung ương (NHTƯ) lớn trên thế giới, đã tiến hành đợt tăng lãi suất toàn cầu nhanh và rộng nhất trong ít nhất 40 năm.
Tuy nhiên, việc ổn định kinh tế vĩ mô vẫn không đạt được trong năm 2022, lạm phát vẫn ở mức gần 2 con số. Nhiều quốc gia phải vật lộn với cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt do tiền lương không theo kịp lạm phát, buộc các hộ gia đình phải đưa ra những lựa chọn khó khăn trong chi tiêu.
Điều gì xảy ra tiếp theo?
Tất cả phụ thuộc vào 3 cú sốc nêu trên sẽ diễn tiến như thế nào? Trong ngắn hạn, câu trả lời của hầu hết giới chuyên gia khá bi quan: Phần lớn thế giới sẽ rơi vào suy thoái vào năm 2023, và ở một số nơi sự yếu kém về kinh tế có thể làm trầm trọng thêm rủi ro địa chính trị. Sự kết hợp này sẽ được thể hiện rõ nhất ở châu Âu. Bất chấp giá năng lượng giảm vào mùa thu, lục địa già vẫn phải đối mặt với những mùa đông khó khăn trong các năm 2022-2023 và 2023-2024.
Nhiều nền kinh tế châu Âu đã ở bên bờ vực suy thoái. Lãi suất cao hơn nhằm giảm lạm phát sẽ làm giảm chi tiêu của người tiêu dùng và tăng tỷ lệ thất nghiệp. Các nhà kinh tế cho rằng 2 nền kinh tế lớn trong eurozone là Đức và Italia sẽ rơi vào suy thoái, trong khi của Anh bị thu hẹp. Cơ quan xếp hạng S&P Global dự báo tình trạng trì trệ cho eurozone vào năm 2023.
Cho đến nay, các chính phủ châu Âu đã bảo vệ người tiêu dùng khỏi cú sốc giá năng lượng tồi tệ nhất bằng các khoản trợ cấp lớn và trần giá. Nhưng điều đó không thể tiếp tục vô thời hạn. Nước Anh đang ở trong tình trạng tồi tệ nhất, do thiệt hại lâu dài từ Brexit và từ kế hoạch cắt giảm thuế lớn không được tài trợ của “Thủ tướng ngắn ngày” Liz Truss. Để xây dựng lại niềm tin của thị trường, London sẽ phải thực hiện chính sách thắt chặt tài khóa lớn nhất trong nhóm các nước lớn G7, ngay cả khi nước này đang phải hứng chịu suy thoái kinh tế sâu sắc nhất. Italia cũng là mối lo ngại.
Rủi ro địa chính trị lớn nhất là Nga có thể cố gắng khai thác những bất ổn của châu Âu để bù đắp những thiệt hại ở chiến trường. Chiến lược này đã được thể hiện rõ ở Ukraine, nơi Nga đang tăng gấp đôi nỗ lực phá hủy cơ sở hạ tầng năng lượng của Kiev. Thậm chí, Nga có thể tiến xa hơn nữa bằng cách cắt đứt tất cả (không phải một số) hoạt động xuất khẩu khí đốt, có nghĩa mọi thứ sẽ trở nên tồi tệ hơn nhiều ở châu Âu. Sự yếu kém về kinh tế có thể làm trầm trọng thêm rủi ro địa chính trị trong năm tới sẽ là Trung Quốc. Bởi nền kinh tế nước này bước vào năm 2023 trong tình trạng suy yếu do chính sách zero Covid kéo dài.
Trong khi đó, nền kinh tế Mỹ bước vào năm 2023 về cơ bản sẽ mạnh hơn so với Trung Quốc hay bất kỳ nền kinh tế nào ở châu Âu. Việc Fed tăng mạnh lãi suất sẽ đẩy nền kinh tế vào suy thoái, nhưng với thị trường lao động vẫn mạnh và tiết kiệm hộ gia đình dồi dào, suy thoái chỉ tác động nhẹ. Mặc dù giá xăng dầu cao đã củng cố lạm phát gia tăng và gây tổn hại cho nền kinh tế, nhưng Mỹ là nhà sản xuất năng lượng lớn, do đó đã được hưởng lợi từ những cú sốc hàng hóa trong năm 2022. Vì vậy, vào năm 2023, sức mạnh kinh tế tương đối của Mỹ vẫn đáng gờm. Fed sẽ cần tăng lãi suất trong thời gian dài hơn để dập tắt lạm phát, làm gia tăng sức mạnh của đồng USD và buộc các NHTƯ khác phải theo chân.
Vẫn có những hy vọng
Mọi cuộc khủng hoảng đều tạo ra những khả năng mới, một số quốc gia sẽ thịnh vượng giữa sóng gió. Thí dụ, các nền kinh tế của vùng Vịnh đang bùng nổ, không chỉ nhờ giá năng lượng cao, còn nhờ vai trò ngày càng tăng của họ với tư cách là các trung tâm tài chính. Ấn Độ, quốc gia sẽ vượt Trung Quốc để trở thành quốc gia đông dân nhất thế giới vào năm 2023, sẽ là điểm sáng khác nhờ giá dầu giảm của Nga, đầu tư trong nước ngày càng tăng và sự quan tâm ngày càng tăng của nước ngoài muốn đa dạng hóa chuỗi cung ứng của họ khỏi Trung Quốc. Nhìn chung, các nền kinh tế mới nổi sẽ tương đối tốt hơn so với các đợt tăng lãi suất và suy thoái toàn cầu trước đây.
Ngay cả khi Mỹ rơi vào suy thoái, có 3 diễn biến thuận lợi cho các thị trường mới nổi lớn khi hướng tới năm 2023. Thứ nhất, lợi suất trái phiếu dài hạn của Mỹ dường như đã đạt đỉnh. Trái phiếu kho bạc 10 năm mang lại lợi suất khoảng 3,6% vào ngày 5-12-2022, thấp hơn gần 3/4 điểm phần trăm so với mức cao nhất vào cuối tháng 10-2022. Thứ hai, đồng USD dường như cũng đã đạt đỉnh do lợi suất trái phiếu Mỹ giảm. Thứ ba, Trung Quốc đã dần nới lỏng các biện pháp phòng chống dịch, mở ra cơ hội phục hồi và tăng trưởng của nền kinh tế số 2 thế giới trong năm nay.
Đối với các quốc gia đang phát triển đã rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất như Sri Lanka, Pakistan và một số nền kinh tế châu Phi, những điều này chỉ giúp ích rất hạn chế. Nhưng đối với những nước khác, sự sụt giảm của đồng USD và lãi suất dài hạn sẽ tạo ra khoảng trống để làm chậm quá trình tăng lãi suất trong nước, hoặc dừng việc tăng lãi suất ở mức thấp hơn dự kiến. Các nhà kinh tế của JPMorgan Chase gần đây đã điều chỉnh giảm dự đoán lãi suất cơ bản của NHTW Hàn Quốc xuống 3,5% từ 3,75% và của NHTW Ấn Độ từ 6,75% xuống 6,25%.
Trong khi đó, Indonesia - thị trường mới nổi lớn thứ 3 về dân số - thậm chí có thể mong đợi được nâng hạng tín nhiệm quốc gia vào năm tới. Nhà kinh tế Helmi Arman của Citigroup cho rằng bức tranh xuất khẩu đang tăng cường của quốc gia Đông Nam Á này, cùng với những cải cách trong nước đang thúc đẩy việc thu thuế của Indonesia, có thể khiến một trong những cơ quan xếp hạng lớn nâng Indonesia lên 3 bậc, thay vì chỉ 2 bậc như hiện nay. Trong khi đó, việc Trung Quốc mở cửa trở lại có nghĩa chi tiêu của người tiêu dùng ở đó dự kiến sẽ tăng 7% trong năm 2023, từ mức chỉ 0,2% trong năm 2022, theo ước tính của các nhà kinh tế Ngân hàng Standard Chartered.
Các nhà kinh tế dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ ở mức khoảng 2% trong 2023, giảm đáng kể so với 2022 và thấp hơn nhiều với mức bình quân 3,3% của thập niên trước đại dịch.