Báo cáo của VEPR nhận định, sự chuyển hướng thương mại, dòng vốn đầu tư và đặc biệt là chuỗi cung ứng toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ, khiến viễn cảnh thế giới trở nên bất trắc hơn bao giờ hết, đồng thời đặt khu vực Đông Nam Á trước những bài toán lớn. Việt Nam tiếp tục hội nhập quốc tế sâu rộng và ngày càng nhạy cảm với biến động bên ngoài.
Trên cơ sở đó, hệ thống thuế của Việt Nam có thể bị bào mòn nhanh chóng dưới áp lực cạnh tranh quốc tế. Điều này đã gây những áp lực lớn về điều hành chính sách tài khóa của Việt Nam.
Cụ thể, hiện nay, thu ngân sách vẫn không đủ bù đắp cho chi ngân sách. Mức thâm hụt ngân sách của năm 2019 ước tính vào khoảng 209.500 tỷ đồng, bằng 3,4% GDP, thấp hơn so với mức dự toán đã được Quốc hội phê duyệt hồi đầu năm (3,6%). Thâm hụt ngân sách năm 2019 tăng so với năm 2018 do chi thường xuyên tăng. Cơ cấu chi không có sự cải thiện khi chi đầu tư phát triển chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ (dưới 30%). Bình quân giai đoạn 2006-2019, thu ngân sách chiếm khoảng 25,16% GDP.
Sự không ổn định trong tổng thu ngân sách trên GDP diễn ra chủ yếu trong giai đoạn 2010-2019. Tương tự như vậy, số thu thuế giảm từ mức 22,2% GDP (2006) xuống mức 17,8% GDP (2019). Trong những năm gần đây, tốc độ tăng của tổng số thu thuế có xu hướng giảm. Nếu như giai đoạn 2006-2011, tốc độ tăng bình quân đạt 17,4%/năm thì giai đoạn 2012-2019 giảm xuống chỉ còn 7,2%/năm.
Nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam năm 2019 đã đạt được những thành tựu, tiếp tục hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội mà Quốc hội đề ra với tăng trưởng GDP cả năm đạt 7,02%, lạm phát bình quân cả năm là 2,79%, thấp hơn so với mức mục tiêu 4%. Thương mại và đầu tư quốc tế tăng trưởng cao.
Thị trường tiền tệ, vốn và tỷ giá đều có sự ổn định và nằm trong tầm kiểm soát. Thâm hụt ngân sách và nợ công cũng có sự cải thiện nhất định. Tuy nhiên, những thành công kể trên đang dựa trên một nền tảng vĩ mô còn thiếu chắc chắn và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu hay việc làm ngày càng phụ thuộc vào khu vực, thậm chí là một vài doanh nghiệp FDI.
Khối doanh nghiệp tư nhân còn dưới mức tiềm năng và phải chịu nhiều rào cản từ môi trường thể chế và kinh doanh trong nước. Không gian chính sách cho chính sách tiền tệ dần bị thu hẹp bởi sức ép lạm phát gia tăng cũng như bởi những cam kết đối với tỷ giá.
Cuối cùng, chính sách tài khóa không tạo nên những thay đổi tích cực trong cơ cấu thu ngân sách, trong khi nợ công cao, thâm hụt ngân sách không nhiều chuyển biến và khối tài sản nhà nước ngày càng thu hẹp. Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam đang thiếu đệm tài khóa để đối phó với các cú sốc bên ngoài.
Cân nhắc những yếu tố tích cực cũng như tiêu cực đang tác động đối với kinh tế Việt Nam hiện nay, VEPR đưa ra các dự báo về tăng trưởng và lạm phát theo các kịch bản khác nhau. Với việc gỡ bỏ phong tỏa xã hội sớm hơn dự kiến (từ cuối tháng 4 so với dự kiến cuối tháng 5-2020 như trước đây), VEPR nâng mức dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam lên so với dự báo trước đây.
Theo đó, kịch bản lạc quan nhất được xây dựng dựa trên giả định, bệnh dịch trong nước được khống chế hoàn toàn vào cuối tháng 4-2020 và hoạt động kinh tế dần trở lại bình thường. Trong khi đó, thế giới cũng bắt đầu nới dần các biện pháp phong tỏa từ đầu tháng 6, giúp các ngành xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng trưởng tốt trong nửa cuối của năm.
Tuy nhiên, các hoạt động kinh tế trong lĩnh vực du lịch, lưu trú, vận tải hành khách vẫn còn dè dặt và chỉ dần hồi phục. Tác động xấu nhất của Covid-19 sẽ rơi vào quý II-2020. Với kịch bản lạc quan này, tăng trưởng kinh tế Việt Nam được dự báo đạt khoảng trên 5,3% trong cả năm 2020.
Với các kịch bản trung tính và bi quan, bệnh dịch ở nhiều trung tâm kinh tế - tài chính quan trọng trên thế giới được giả định có thể tái bùng phát, và các nước phải kéo dài thời gian phong tỏa sang nửa sau quý III, thậm chí quý IV-2020. Mức độ tác động của Covid-19 lên các ngành nông lâm ngư nghiệp, sản xuất chế biến chế tạo và các ngành trong khu vực dịch vụ sẽ nghiêm trọng hơn. Mức tăng trưởng trong năm 2020 của kinh tế Việt Nam có thể chỉ là 3,9% trong kịch bản trung tính, hoặc chỉ là 1,7% trong kịch bản bi quan.
Về lạm phát, báo cáo của VEPR nhận định, rủi ro lạm phát trung bình, cầu kéo thấp, nhưng rủi ro từ lương thực thực phẩm tăng, rủi ro từ tỷ giá trung bình, đồng thời dự đoán lạm phát của năm 2020 sẽ dao động ở mức 3,5-4%.