PHÓNG VIÊN: - Thưa bà, bà có nhận định gì từ bức tranh nền kinh tế thể hiện qua số liệu thống kê 6 tháng đầu năm nay?
TS. NGUYỄN THỊ HƯƠNG: - Là nền kinh tế mở, chúng ta đã chịu tác động lớn từ những biến động phức tạp, khó lường của việc suy giảm kinh tế của thế giới. Trong bối cảnh đó, tình hình kinh tế 6 tháng đầu năm có nhiều điểm sáng tối đan xen với một số kết quả: kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối lớn được đảm bảo, lạm phát được kiểm soát ở mức phù hợp, hoạt động sản xuất kinh doanh trong tháng 5 và 6 đang dần cải thiện, phần lớn doanh nghiệp (DN) đã ổn định sản xuất.
GDP trong quý II đạt 4,14%, cao hơn 0,86% so với mức tăng 3,28% của quý I. Tính chung 6 tháng đầu năm, tăng trưởng kinh tế đạt 3,72%, tuy chưa như kỳ vọng nhưng đây là mức tăng trưởng đáng khích lệ và là kết quả của việc nỗ lực phát huy nội lực trong nước. Nội lực này thể hiện rõ ở cả 3 khu vực kinh tế, gồm nông lâm nghiệp và thủy sản tăng trưởng tích cực và ổn định với mức tăng 3,25% so với cùng kỳ năm trước.
Khu vực này hiện đang đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu chuyển từ “sản xuất nông nghiệp” sang “kinh tế nông nghiệp” và vẫn là bệ đỡ của nền kinh tế, đảm bảo nguồn cung và an ninh lương thực, đồng thời các sản phẩm nông nghiệp là nguồn hàng cho xuất khẩu.
Khu vực công nghiệp xây dựng đã tạm thời chấm dứt đà tăng trưởng âm từ quý I và đạt mức tăng trưởng 1,56% (quý I giảm 0,75%). Ngành xây dựng cũng tăng trưởng cao với mức tăng 7,05%, cao hơn mức tăng 4,94% của cùng kỳ năm trước, do quyết liệt thực hiện giải pháp đẩy nhanh đầu tư công. Đầu tư công tăng khoảng 22%, trong đó đầu tư của khu vực nhà nước tăng 12,6%.
Khu vực dịch vụ là điểm sáng nhất với mức tăng trưởng 6,11%, giúp chúng ta vừa kết nối thế giới, vừa trụ vững với các ngành, tăng cường khả năng tiêu dùng trong nước, vừa xuất khẩu các dịch vụ trực tiếp tại địa phương. Kết quả này thể hiện hiệu quả của các chính sách kích cầu tiêu dùng nội địa, hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch được đẩy mạnh. Du lịch phát triển kéo theo sự tăng trưởng mạnh trong các nhóm ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống, vận tải kho bãi, bán buôn bán lẻ và nghệ thuật vui chơi giải trí…
- Điểm rất đáng chú ý là kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giảm, tốc độ giải ngân vốn cho các dự án vẫn chậm, được xem là các nguyên nhân kéo lùi đà tăng trưởng kinh tế của 6 tháng đầu năm. Bà bình luận thế nào về việc này?
- Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm ước đạt 316,7 tỷ USD, giảm 15,2% so cùng kỳ. Về đầu tư công, 6 tháng đầu năm mới thực hiện đạt 33% kế hoạch vốn giao cho cả năm 2023, vẫn còn khối lượng rất lớn (62-67% kế hoạch vốn) cần thực hiện để đạt được mục tiêu tại Chỉ thị 08 đề ra là thực hiện giải ngân 95-100% kế hoạch vốn năm 2023.
Tuy nhiên, thực trạng sụt giảm kim ngạch xuất nhập khẩu không chỉ riêng Việt Nam, bởi trong 16 nền kinh tế lớn trên thế giới có đến 13 quốc gia (chiếm 81,3%) có tốc độ sụt giảm xuất khẩu, 12 quốc gia (chiếm 75%) có tốc độ sụt giảm nhập khẩu trong tháng 4. Do vậy, xét về tổng thể, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam 6 tháng đầu năm được đánh giá là điểm sáng trong bối cảnh tổng cầu thế giới suy giảm. Đồng thời cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam đạt 12,3 tỷ USD, cao nhất trong 10 năm gần đây, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.
2023 là năm bản lề để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước giai đoạn 2021-2025, tất cả nguồn lực phải được huy động và quyết tâm thực hiện trọn vẹn, hiệu quả nhất các giải pháp phát triển kinh tế, kỳ vọng mức tăng trưởng GDP sẽ khả quan và có thể đạt mức cao trong năm nay.
Bên cạnh đó, việc Trung Quốc là thị trường có thương mại 2 chiều lớn nhất với Việt Nam đã thật sự mở cửa nền kinh tế, sẽ là yếu tố tích cực cho xuất nhập khẩu của Việt Nam, đặc biệt đối với những nhóm hàng nông lâm thủy sản.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế vẫn đang phải đối mặt với lạm phát trong những tháng cuối năm, tác động tới các DN sản xuất phục vụ xuất khẩu, thực trạng suy thoái kinh tế ở nhiều quốc gia trên thế giới, xung đột địa chính trị…, dẫn tới nhu cầu tiêu dùng toàn cầu suy giảm, sẽ tác động bất lợi đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong các tháng cuối năm 2023.
Về đầu tư công, dù số vốn thực hiện trong 6 tháng mới đạt khoảng 1/3 kế hoạch cả năm, nhưng với việc giải ngân hơn 232.200 tỷ đồng là con số rất lớn, thể hiện rõ sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự quyết tâm của các bộ, ngành và địa phương trong việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án/công trình ngay từ các tháng đầu năm.
Điều này mang cả hai hàm ý, một mặt, đây là áp lực bởi đẩy mạnh thực hiện vốn đầu tư công là nhiệm vụ chính trị quan trọng trong năm 2023, mặt khác đây cũng là dư địa động lực đóng góp cho tăng trưởng kinh tế của nửa năm còn lại.
- Trong bối cảnh chịu ảnh hưởng của khó khăn theo xu hướng chung đó, tình hình DN được thể hiện qua số liệu thống kê như thế nào, và điều đó phản ánh vấn đề gì của nền kinh tế, thưa bà?
- Trong 6 tháng đầu năm có 113.550 DN thành lập mới và quay trở lại thị trường, giảm 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Nhưng cũng có 100.000 DN rút lui khỏi thị trường, tăng 19,7%. Qua số liệu về đăng ký kinh doanh có thể thấy DN đang gặp khó khăn về vốn kinh doanh, thể hiện ở tổng số vốn đăng ký của DN thành lập mới chỉ đạt 707.457 tỷ đồng, bằng 75-80% cùng kỳ các năm chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.
Số vốn đăng ký bình quân 1 DN trong 6 tháng đầu năm chỉ đạt 9,3 tỷ đồng, thấp nhất trong 6 tháng đầu năm kể từ năm 2017. Số vốn đăng ký tăng thêm của DN đang hoạt động cũng giảm 48,1% so với cùng kỳ 2022.
Khó khăn về vốn kinh doanh nên ngay cả khi mặt bằng lãi suất đã được giảm tương đối, khả năng hấp thụ vốn của DN vẫn còn hạn chế. Chỉ trong vòng 3 tháng, NHNN đã điều chỉnh giảm lãi suất 4 lần với mức giảm 0,5-2%/năm. Nhưng tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức thấp, đến 20-6 chỉ tăng 3,13% so với năm 2022, chưa bằng 1/4 mục tiêu tăng trưởng tín dụng của năm (khoảng 14-15%).
Tín dụng tăng trưởng chậm cho thấy tình hình khó khăn của DN: thiếu đơn hàng, đầu ra khó khăn, hàng tồn kho nhiều, nhu cầu vay vốn mới để sản xuất giảm sút, nhiều DN không có phương án kinh doanh khả thi.
- Có ý kiến cho rằng nền kinh tế vẫn chưa ở đáy của khó khăn. Bà dự báo tình hình tới đây thế nào?
- Tổng cục Thống kê nhận định còn nhiều khó khăn, thách thức trong những quý tiếp theo do tình hình thế giới tiếp tục biến động phức tạp, khó lường. Tiêu dùng và các hoạt động kinh tế, đầu tư toàn cầu bị tác động mạnh bởi chính sách tiền tệ thắt chặt. Kinh tế toàn cầu tiếp tục suy giảm... Hoạt động của các DN công nghiệp chưa thể lấy lại đà tăng trưởng cao trong ngắn hạn.
Tuy nhiên, với sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, nỗ lực các thành phần kinh tế, cùng với sự đồng thuận của người dân, sản xuất công nghiệp 6 tháng cuối năm 2023 chắc chắn khởi sắc hơn, tăng trưởng kinh tế có nhiều triển vọng. Và thời gian tới cũng sẽ có những yếu tố thuận lợi. Thứ nhất, xuất nhập khẩu sẽ có một số dấu hiệu tích cực, khi những thông tin kinh tế tích cực từ một số nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc mở cửa trở lại sẽ tạo cơ hội cho các hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ hai, tiêu dùng trong nước tiếp tục phục hồi, kỳ vọng du lịch khởi sắc. Lạm phát có xu hướng tăng chậm lại và được kiểm soát tốt, lãi suất ngân hàng giảm là tín hiệu tích cực kích cầu tiêu dùng. Cầu nội địa tăng sẽ kéo theo sự sôi động hơn của thị trường. Thứ ba, giải ngân vốn đầu tư công được đẩy mạnh và xu hướng dịch chuyển dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ kích cầu đầu tư, từ đó tác động tích cực đến nền kinh tế.
Tiếp đó, thuế VAT giảm 2% từ ngày 1-7-2023 góp phần giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, giúp DN tăng khả năng phục hồi và mở rộng sản xuất kinh doanh…
- Xin cảm ơn bà.
Trong 6 tháng đầu năm 2023, TPHCM thực hiện tốt mục tiêu ngăn chặn đà suy thoái, các lĩnh vực kinh tế có mức tăng trưởng khá. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn TP (GRDP) ước tăng 3,55% so với cùng kỳ 2022. Trong đó, khu vực dịch vụ đóng góp lớn nhất, khi tăng 4,96% so với cùng kỳ và đóng góp 89% vào tốc độ tăng GRDP. Riêng 9 ngành dịch vụ chủ yếu của TPHCM tăng 4,92%, đóng góp 80,6% vào tốc độ tăng GRDP.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 561.734 tỷ đồng, tăng 7,1% so với cùng kỳ. TP cũng đã giao và phân bổ vốn đầu tư công năm 2023 hơn 68.490 tỷ đồng; trong đó đã giải ngân 10.244 tỷ đồng, đạt 15% tổng số vốn giao.
Hiện TPHCM đang tập trung hoàn thiện, triển khai kế hoạch thực hiện Nghị quyết 98 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TPHCM, tối ưu hóa mọi nguồn lực, tiềm năng sẵn có để phát triển vượt bậc.