Động thái này được kỳ vọng sẽ giúp giảm sự phụ thuộc quá mức vào chuỗi cung ứng của Trung Quốc, đơn cử như chip bán dẫn và thiết bị y tế, để phản ứng tốt trước các tình huống khẩn cấp.
TMX Global - công ty tư vấn chuỗi cung ứng toàn diện có trụ sở chính tại Australia, đại diện là ông Thomas Harris, Giám đốc quốc gia của TMX Global tại Việt Nam, đã có những chia sẻ với ĐTTC xoay quanh ngành chuỗi cung ứng tại Việt Nam sau thỏa thuận IPEF.
PHÓNG VIÊN: - Ông có thể chia sẻ về thực trạng chuỗi cung ứng và bối cảnh ngành logistics của Việt Nam hiện nay?
Ông THOMAS HARRIS: - Việt Nam là thị trường mới nổi và phát triển nhanh chóng, với bối cảnh ngành chuỗi cung ứng và logistics thể hiện tiềm năng mạnh mẽ trên trường quốc tế. Việt Nam xếp thứ 10 trong Chỉ số logistics của các thị trường mới nổi nhanh nhẹn năm 2022, trong đó các mặt hàng điện tử, điện dân dụng từ các công ty công nghệ dẫn đầu toàn cầu như Apple, Sony, Samsung, đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng này trong vài năm qua.
Theo tôi, Việt Nam vẫn có thế mạnh về sản xuất giày dép, may mặc và bán lẻ. Số liệu của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) cho biết, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may và da giày của Việt Nam đạt khoảng 71 tỷ USD vào năm 2022. Chúng tôi nhận thấy các doanh nghiệp đang hướng tới Việt Nam vì chi phí vận hành tương đối thấp.
Trong báo cáo “Chi phí kinh doanh ở châu Á” (Cost of Doing Business in Asia) của TMX, Việt Nam nổi lên là một trong những nước có chi phí kinh doanh thấp nhất trong khu vực, chỉ có Campuchia và Myanmar thấp hơn. Chi phí thuê kho trung bình ở Việt Nam cũng thấp thứ 4, ở mức 5 USD/m2/tháng. Việt Nam cũng tự hào có nguồn lao động lớn và giá cả phải chăng, và là thị trường lao động hợp lý thứ 4 trong khu vực.
Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy mức tăng trưởng này chậm lại trong quý đầu tiên của năm 2023, do áp lực lạm phát và nhu cầu của người tiêu dùng chậm lại. Đáng chú ý, tổ chức xếp hạng tín dụng lớn và uy tín S&P Global gần đây đã báo cáo rằng, lĩnh vực sản xuất hiện đang trải qua đợt suy giảm thứ 3 liên tiếp và là mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 9-2021.
Song, sự suy giảm này là bình thường do nhu cầu của người tiêu dùng yếu hơn, sau áp lực ngày càng tăng của suy thoái kinh tế. Vì thế, chúng tôi kỳ vọng Việt Nam sẽ lấy lại động lực tiếp tục trong tương lai.
- IPEF dự kiến sẽ có những tác động thế nào đến chuỗi cung ứng và doanh nghiệp tại Việt Nam, thưa ông?
- Trong khi quỹ đạo của Việt Nam có vẻ tích cực, đất nước này cũng không tránh khỏi những cơn gió ngược. Đó là khi tiến lên cao hơn trong chuỗi giá trị sản xuất, Việt Nam càng dễ bị tổn thương hơn trước sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu. Theo nghiên cứu của TMX Global, những gián đoạn này đã khiến nền kinh tế Việt Nam thiệt hại đáng kinh ngạc 2,6 tỷ đô la Singapore mỗi năm.
Do đó, điều cấp thiết là Việt Nam phải tiếp tục hướng tới tăng cường chuỗi cung ứng của mình. Với thỏa thuận giữa các quốc gia thành viên IPEF hướng tới tăng cường chuỗi cung ứng, một trong những sáng kiến quan trọng là khuôn khổ giám sát, điều chỉnh chuỗi cung ứng và lao động, cũng như xử lý khủng hoảng chuỗi cung ứng. Khi các quốc gia thành viên hợp tác và trao đổi các kinh nghiệm tốt nhất, kiến thức ngành và nguồn lực theo thỏa thuận, các doanh nghiệp Việt Nam và ngành chuỗi cung ứng có thể mong đợi những cải tiến khả thi về chính sách, cơ sở hạ tầng và đổi mới ngành.
Với IPEF, các doanh nghiệp và chuỗi cung ứng của Việt Nam cũng có thể có được sự ổn định hơn trong thương mại song phương, hoặc chứng kiến việc bảo vệ “bạn bè”, bảo vệ đồng minh thường xuyên hơn, khi Việt Nam hợp tác sâu hơn với Mỹ để thực hiện các kế hoạch và giải pháp cùng có lợi cho chuỗi cung ứng.
Về phần mình, IPEF cam kết thành lập 3 hội đồng: Hội đồng chuỗi cung ứng, Mạng lưới ứng phó khủng hoảng chuỗi cung ứng và Ủy ban cố vấn quyền lao động. Các cơ quan này sẽ giúp, tạo điều kiện giao tiếp mạnh mẽ giữa các quốc gia để dự đoán và ngăn ngừa rủi ro, vì các quốc gia liên quan đóng vai trò quan trọng trong các hội đồng này.
- Theo ông, các quốc gia và doanh nghiệp IPEF có thể làm gì hơn nữa để xây dựng chuỗi cung ứng mạnh mẽ hơn, nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến nền kinh tế?
- Mỗi quốc gia IPEF sở hữu những thế mạnh và thách thức riêng mà họ có thể tìm cách cải thiện trong từng khu vực. Thí dụ, Việt Nam có thể tiếp tục phát huy thế mạnh của mình với đầu tư lớn hơn. Việt Nam đã chi một khoản đáng kể cho việc tăng cường cơ sở hạ tầng so với các đối tác ASEAN.
Theo đó, Việt Nam hiện đang phân bổ khoảng 6% GDP cho cơ sở hạ tầng, cao hơn gấp đôi so với mức chi trung bình của các quốc gia ASEAN khác là 2,3% GDP. Mức đầu tư được mong đợi sẽ dẫn đến sự tăng trưởng đáng kể trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của Việt Nam trong những năm tới. Điều này sẽ mang lại lợi ích cho chuỗi cung ứng và hậu cần của đất nước.
Nhưng trách nhiệm không chỉ thuộc về các quốc gia, bởi các doanh nghiệp có thể đóng góp một phần. Đối với các doanh nghiệp, có 3 lĩnh vực cần cân nhắc khi đề cập đến cách họ có thể củng cố chuỗi cung ứng, bao gồm: (1) Quy trình, trong đó các hoạt động được tối ưu hóa và hướng tới các sở thích thay đổi nhanh chóng của khách hàng, bao gồm khả năng hiển thị và truy xuất nguồn gốc rõ ràng hơn. (2) Công nghệ, tận dụng số hóa và những đổi mới mới nổi như tự động hóa để cho phép những chuyển đổi kinh doanh cần thiết này. (3) Con người, nơi lực lượng hậu cần hiện cần nâng cao kỹ năng và chuyển đổi để phục vụ chuỗi cung ứng được đổi mới.
Tóm lại, đối với các doanh nghiệp, ngành chuỗi cung ứng và bối cảnh ngành logistics sẽ luôn thay đổi liên tục, như chúng ta thấy có rất nhiều sự gián đoạn. Để theo kịp, các quy trình yêu cầu tự động hóa, hệ thống và dữ liệu cần được tích hợp, công nhân cần có nguồn lực mới và người quản lý cần có khả năng hiển thị chuỗi cung ứng tốt hơn. Những yêu cầu này đòi hỏi đầu tư vào việc tối ưu hóa chuỗi cung ứng của họ để đạt được những điều trên.
- Xin cảm ơn ông!
IPEF là sáng kiến của Mỹ phát động hồi tháng 5-2022, với sự tham gia của 14 nước gồm Ấn Độ, Brunei, Fiji, Hàn Quốc, Mỹ, Indonesia, Malaysia, New Zealand, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Thái Lan, Australia và Việt Nam.